Đề Xuất 6/2023 # Cơ Sở Lý Luận Về Du Lịch Và Phát Triển Du Lịch Sinh Thái # Top 9 Like | Tuvanduhocsing.com

Đề Xuất 6/2023 # Cơ Sở Lý Luận Về Du Lịch Và Phát Triển Du Lịch Sinh Thái # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Cơ Sở Lý Luận Về Du Lịch Và Phát Triển Du Lịch Sinh Thái mới nhất trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Khái niệm du lịch, tài nguyên du lịch. Khái niệm,vai trò du lịch sinh thái,đặc trưng và nguyên tắc hoạt động của du lịch sinh thái.Khái niệm về phát triển du lịch sinh thái bền vững

Phát triển du lịch sinh thái bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai

1. Du lịch

1.1. Khái niệm du lịch

1.2. Tài nguyên du lịch

1.2.1. Khái niệm tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch. Tuy nhiên cần lưu ý: – Tổng thể tự nhiên và nhân văn có tính chất của tài nguyên du lịch nhưng chưa có nhu cầu du lịch thì chưa được coi là tài nguyên du lịch mà chỉ có thể coi ở dạng tiềm năng. – Chỉ những tài nguyên khai thác thật sự tạo ra sản phẩm du lịch đem lại hiệu quả cao mới được trao quyền sở hữu cho du lịch. – Trong điều kiện nhu cầu tăng cao, việc đưa các tổng thể tự nhiên, nhân văn không thật thuận lợi vào việc khai thác phục vụ du lịch phải được cải tạo theo qui luật đáp ứng nhu cầu của con người.1.2.2. Đặc điểm tài nguyên du lịch– Tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch Tài nguyên du lịch là điều kiện cần để tạo ra sản phẩm du lịch, tài nguyên du lịch càng đa dạng và phong phú thì sản phẩm du lịch càng phong phú nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Ví dụ để thoả mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu để nâng cao nhận thức của khách du lịch thì tài nguyên du lịch có thể là các lễ hội, các sinh hoạt truyền thống của một vùng chợ, của một số các dân tộc ít người, các di tích lịch sử, văn hoá, các bảo tàng, các thác nước, hồ, sông, suối, các hang động, các cánh rừng nguyên sinh với sự đa dạng sinh học cao.– Tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô hình Đây có thể được xem là một trong những đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch, khác với những nguồn tài nguyên khác. Giá trị vô hình thể hiện giá trị chiều sâu văn hoá lịch sử, phụ thuộc vào khả năng nhận thức, đánh giá của khách du lịch. Ví dụ đối với các tài nguyên như nhã nhạc cung đình Huế hoặc không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Người ta chỉ thật sự cảm nhận được giá trị của các tài nguyên này thông qua tiếng nhạc, tiếng cồng chiêng vì các ý nghĩa khi dùng những nhạc cụ, dàn nhạc này chứ không thể sờ, bắt được âm thanh hoặc không thể cảm nhận giá trị chỉ dựa vào các nhạc cụ trong dàn nhạc hoặc thông qua những chiếc cồng, chiêng được.– Tài nguyên du lịch có tính sở hữu chung Theo Luật Du Lịch Việt Nam, năm 2005 điều 7, mục 1 quy định: “Cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp pháp từ hoạt động du lịch”. Và tại Điều 5, mục 4 Luật Du lịch Việt Nam, năm 2005 cũng quy định: “Nhà nước ta đảm bảo sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong phát triển du lịch”. Qua đó cho thấy, về nguyên tắc thì bất kỳ công dân nào cũng có quyền được thẩm định, thưởng thức các giá trị của tài nguyên du lịch. Việc khai thác tài nguyên du lịch là quyền của mọi doanh nghiệp du lịch. Không có cá nhân hoặc doanh nghiệp nào được độc quyền tổ chức các tour du lịch, khai thác tài nguyên du lịch tại bất cứ điểm du lịch nào. Thậm chí một công ty hay một tập đoàn tư bản đầu tư quy hoạch xây dựng một khu du lịch, song cũng không thể độc quyền tổ chức các tour du lịch mà chỉ có thể hưởng lợi nhuận từ việc đầu tư xây dựng và tổ chức kinh doanh. Vì thế nếu như lượng khách du lịch đến càng ít sẽ dẫn đến lãng phí tài nguyên, cơ sở vật chất kĩ thuật làm cho hiệu quả kinh doanh thấp.– Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau Trong số các tài nguyên du lịch, có những tài nguyên có khả năng khai thác quanh năm như các tài nguyên nhân văn là các di tích, lịch sử, bảo tàng….Và cũng có những tài nguyên chỉ khai thác vào một số thời điểm trong năm, phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết và chính điều này tạo nên tính thời vụ trong du lịch. Đối với các tài nguyên biển, thời gian khai thác thích hợp nhất là vào thời kỳ có khí hậu nóng bức trong năm. Hoặc đối với nguồn tài nguyên nhân văn là các lễ hội thì thời điểm hoạt động du lịch, thu hút khách trùng với thời gian diễn ra lễ hội. Thời gian diễn ra lễ hội thường gắn với đặc điểm tôn giáo, hoặc đặc điểm hình thành các lễ hội đó và mùa xuân là mùa của lễ hội với các lễ hội nổi tiếng như lễ hội chùa Hương, lễ hội Đền Hùng (mồng 10 tháng 3), Hội Lim (ngày 13 tháng giêng), Lễ hội đền Cổ Loa (từ ngày 6 đến 16 tháng giêng), Hội Gióng, Hội Đống Đa…– Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ để tạo ra sản phẩm du lịch Khác với các sản phẩm hàng hoá khác là sau khi sản xuất, chế biến thành sản phẩm thì có thể vận chuyển đến nơi khác để tiêu thụ nhưng đối với sản phẩm du lịch thì khác. Khách du lịch muốn sử dụng sản phẩm du lịch thì phải đến tận nơi có nguồn tài nguyên du lịch được khai thác tạo thành sản phẩm du lịch đó để thưởng thức. Tức là quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xảy ra đồng thời. Chính vì đặc điểm khách du lịch phải đến tận các điểm du lịch, nơi có tài nguyên du lịch và thưởng thức các sản phẩm du lịch nên muốn khai thác các tài nguyên này điều đầu tiên cần quan tâm là phải chuẩn bị tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, phương tiện vận chuyển khách du lịch…Vì thế những điểm du lịch nào có vị trí địa lý thuận lợi, tiện đường giao thông và các cơ sở dịch vụ du lịch tốt thì hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt hiệu quả cao. Ví dụ khách muốn tham quan vịnh Hạ Long, tiêu dùng các sản phẩm du lịch ở Hạ Long thì bắt buộc khách phải đến Hạ Long thì mới có thể tiêu dùng các sản phẩm du lịch ở đây được chứ không ai có thể mang Hạ Long đến nhà cho khách dùng được.– Tài nguyên du lịch có thể sử dụng nhiều lần Đặc điểm của các tài nguyên tạo nên sản phẩm du lịch là bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu, chính vì thế với cùng một nguồn tài nguyên tạo nên sản phẩm du lịch có thể bán cho nhiều đối tượng khách khác nhau vào rất nhiều lần. Tài nguyên du lịch được xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. Vấn đề chính là phải nắm được quy luật của tự nhiên, lường trước được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian và những biến động, đổi thay do con người gây nên. Từ đó có định hướng lâu dài và các biện pháp cụ thể để khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, không ngừng bảo vệ, tôn tạo và hoàn thiện tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển.1.2.3. Phân loại tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch chia làm 2 nhóm: – Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: Địa hình, khí hậu, thuỷ văn, tài nguyên sinh vật. – Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử – văn hoá, các lễ hội, nghề và làng nghề thủ công truyền thống, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hoá, thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện khác.

2. Du lịch sinh thái

2.1. Khái niệm du lịch sinh thái

2.2. Vai trò của du lịch sinh thái

– Lợi ích kinh tế: Với việc tổ chức du lịch sinh thái, các khu thiên nhiên, đặc biệt các khu bảo tồn thiên nhiên sẽ được đưa vào phục vụ du lịch, giúp tăng thêm nguồn tài nguyên thiên nhiên cho ngành du lịch, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Du lịch sinh thái phát triển góp phần tạo công ăn việc làm, thu nhập thêm cho các cộng đồng trong và quanh khu vực tổ chức hoạt động du lịch sinh thái, góp phần cải thiện tình hình kinh tế địa phương, xóa đói giảm nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Góp phần cải thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng của các khu du lịch sinh thái, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của cộng đồng địa phương, cùng với việc giáo dục môi trường giúp cộng đồng địa phương có kế hoạch phát triển nguồn tài nguyên mà không bị xuống cấp trong quá trình khai thác và sử dụng. Du lịch sinh thái cũng góp phần khôi phục và phát triển những ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, thúc đẩy các ngành nghề khác cùng phát triển và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy du lịch sinh thái mang lại lợi ích cho kinh tế rất lớn đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia, địa phương, đơn vị kinh doanh du lịch – Lợi ích xã hội: Cùng với sự phát triển của đô thị hóa, con người ngày càng tách rời với môi trường tự nhiên, một số hình ảnh thiên nhiên chỉ còn tìm thấy trong ký ức, nhờ có sự phát triển của du lịch sinh thái nhu cầu tìm hiểu thiên nhiên của con người mới được đáp ứng. – Lợi ích thẩm mỹ: Mỗi một cảnh quan chứa đựng trong nó biết bao nhiêu là vẻ đẹp, sự sinh động của thế giới tự nhiên và sự năng động trong cách thích ứng với thế giới tự nhiên của con người. Nơi du lịch sinh thái phát triển là nơi cảnh quan thiên nhiên được phát hiện, phát triển và bảo tồn. Du lịch sinh thái tạo điều kiện cho các nhà thiết kế tour tiến hành khảo sát các tuyến điểm du lịch nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn. Sự khảo sát này kèm theo những nguyên tắc chặt chẽ như nghiêm cấm mọi hành vi phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, cấm sờ mó vào các thạch nhũ, các công trình kiến trúc, văn hóa cổ,…thúc đẩy sự bảo tồn nguồn tài nguyên nhân văn. – Lợi ích sinh thái: Thông qua các hoạt động, du lịch sinh thái sẽ giúp cho các loài động thực vật quý hiếm được khôi phục, gìn giữ và bảo vệ sự đa dạng hệ sinh học trên toàn thế giới, du lịch sinh thái góp phần giúp con người sống có trách nhiệm hơn với môi trường tự nhiên. Du lịch sinh thái kết hợp hài hòa cả 3 mục tiêu: kinh tế, xã hội, sinh thái. Do đó du lịch sinh thái là một loại hình du lịch bền vững, nó đảm bảo cho môi trường tự nhiên và xã hội không những không bị suy thoái mà còn được củng cố phát triển lâu dài. Giáo dục môi trường cho người tiêu dùng.

2.3. Đặc trưng và nguyên tắc hoạt động cơ bản của du lịch sinh thái

2.4. Tài nguyên du lịch sinh thái

2.4.1. Khái niệm tài nguyên du lịch sinh thái Theo Phạm Trung Lương [5, tr36] đã đưa ra khái niệm về tài nguyên du lịch sinh thái như sau:”Tài nguyên du lịch sinh thái là một bộ phận của tài nguyên du lịch bao gồm các giá trị tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hóa bản địa tồn tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự nhiên đó”.2.4.2. Đặc điểm của tài nguyên du lịch sinh thái Tài nguyên du lịch sinh thái phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc có sức hấp dẫn lớn: Là một bộ phận quan trọng của tài nguyên du lịch chủ yếu được hình thành từ tự nhiên, mà bản thân tự nhiên lại rất đa dạng và phong phú, vì thế tài nguyên du lịch sinh thái cũng có những đặc điểm này. Có nhiều hệ sinh thái đặc biệt, nơi sinh trưởng, tồn tại và phát triển nhiều loại sinh vật đặc hữu quý hiếm, thậm chí có những loài sinh vật có nguy cơ bị tuyệt chủng được xem là những tài nguyên du lịch đặc sắc, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Tài nguyên du lịch sinh thái thường rất nhạy cảm với các tác động: So với nhiều dạng tài nguyên du lịch khác, tài nguyên du lịch sinh thái thường rất nhạy cảm đối với các tác động của con người. Sự thay đổi tính chất của một số hợp phần tự nhiên hoặc sự suy giảm hay mất đi của một số loài sinh vật cấu thành nên hệ sinh thái nào đó dưới tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi, thậm chí mất đi hệ sinh thái đó và kết quả là tài nguyên du lịch sinh thái sẽ bị ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau. Tài nguyên du lịch sinh thái có thời gian khai thác khác nhau: Trong các tài nguyên du lịch sinh thái, có loại có thể khai thác được hầu như quanh năm, song cũng có loại việc khai thác phụ thuộc ít nhiều vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo quy luật diễn biến của khí hậu, của mùa di cư, sinh sản các loài sinh vật, đặc biệt là các loài đặc hữu quý hiếm. Như vậy, để khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch sinh thái, các nhà quản lý, tổ chức điều hành cần có những nghiên cứu cụ thể về tính mùa của các loại tài nguyên để làm căn cứ đưa ra các giải pháp thích hợp. Tài nguyên du lịch sinh thái thường nằm xa các khu dân cư và được khai thác tại chỗ để tạo ra sản phẩm du lịch: Một đặc điểm có tính đặc trưng của tài nguyên du lịch sinh thái là chúng thường nằm xa các khu dân cư bởi chúng sẽ nhanh chóng bị suy giảm, biến đổi, thậm chí không còn nữa do tác động trực tiếp của người dân như săn bắn, chặt cây,…nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của mình. Điều này giải thích tại sao phần lớn tài nguyên du lịch sinh thái lại nằm trong phạm vi các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên – nơi có sự quản lý chặt chẽ. Khác với nhiều loại tài nguyên khác, sau khi được khai thác có thể vận chuyển đi nơi khác để chế biến tạo ra sản phẩm rồi lại đưa đến nơi tiêu thụ, tài nguyên du lịch nói chung, tài nguyên du lịch sinh thái nói riêng được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách. Trong một số trường hợp thực tế có thể tạo ra những môi trường giống như môi trường tự nhiên với các vườn thực vật, công viên để du khách tham quan nhưng đây chưa phải là sản phẩm của du lịch sinh thái đích thực, thường chúng được tạo ra trong các đô thị, các thành phố lớn, nhằm phục vụ cho số người dân ít có điều kiện về với các khu tự nhiên. Do những đặc điểm trên nên để khai thác có hiệu quả tài nguyên, du lịch sinh thái cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông tiếp cận với những vùng giàu tài nguyên. Tài nguyên du lịch sinh thái có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài: Phần lớn các tài nguyên du lịch, trong đó có tài nguyên du lịch sinh thái được xếp vào nhóm tài nguyên có khả năng tái tạo, sử dụng lâu dài. Điều này dựa trên khả năng tự phục hồi, tái tạo của tự nhiên. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều tài nguyên du lịch sinh thái đặc sắc như các loài sinh vật quý hiếm hoàn toàn có thể mất đi do tự nhiên hoặc do tác động của con người. Vấn đề đặt ra là cần phải nắm được quy luật của tự nhiên lường trước được những tác động của con người đối với tự nhiên nói chung tài nguyên du lịch sinh thái nói riêng để có những định hướng, giải pháp cụ thể khai thác hợp lý, có hiệu quả, không ngừng bảo vệ tôn tạo và phát triển các nguồn tài nguyên vô giá này. Đây là yêu cầu sống còn của du lịch nhằm góp phần thực hiện chiến lược phát triển du lịch bền vững. Chỉ có phát triển du lịch bền vững mới đảm bảo cho nguồn tài nguyên du lịch sinh thái ít bị tổn hại, nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển du lịch hiện tại mà còn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng trong tương lai.2.4.3. Phân loại tài nguyên du lịch sinh tháiCác hệ sinh thái điển hình và đa dạng sinh học:– Hệ sinh thái rừng nhiệt đới: + Hệ sinh thái rừng rậm nội chí tuyến gió mùa ẩm thường xanh (Hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới) + Hệ sinh thái rừng rậm gió mùa thường xanh trên núi đá vôi (Hệ sinh thái Karst) + Hệ sinh thái savan nội chí tuyến gió mùa khô (Hệ sinh thái rừng savan) + Hệ sinh thái rừng khô hạn– Hệ sinh thái núi cao – Hệ sinh thái đất ngập nước: + Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển + Hệ sinh thái đầm lầy nội địa + Hệ sinh thái sông, hồ + Hệ sinh thái đầm phá – Hệ sinh thái san hô, cỏ biển – Hệ sinh thái vùng cát ven biển – Hệ sinh thái biển – đảo – Hệ sinh thái nông nghiệpCác tài nguyên du lịch sinh thái đặc thù: miệt vườn, sân chim, cảnh quan tự nhiên: – Miệt vườn Đây là một dạng đặc biệt của hệ sinh thái nông nghiệp. Miệt vườn là các khu chuyên canh trồng cây ăn quả, trồng hoa, trồng cảnh,…rất hấp dẫn đối với khách du lịch…. Tính cách sinh hoạt của cộng đồng người dân nơi đây pha trộn giữa tính cách người nông dân và người tiểu thương. Đặc điểm này đã hình thành nên những giá trị văn hoá bản địa riêng gọi là “văn minh miệt vườn” và cùng với cảnh quan vườn tạo thành một dạng tài nguyên du lịch sinh thái đặc sắc. – Sân chim Là một hệ sinh thái đặc biệt ở những vùng đất rất rộng từ vài ha đến vài trăm ha, hệ thực vật phát triển, khí hậu thích hợp với điều kiện sống hoặc di cư theo mùa của một số loài chim. Thường đây cũng là nơi cư trú hoặc di cư của nhiều loài chim đặc hữu, quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Bởi vậy, các sân chim cũng thường được xem là một dạng của du lịch sinh thái đặc thù có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. – Cảnh quan tự nhiên Là sự kết hợp tổng thể các thành phần tự nhiên, trong đó địa hình, lớp phủ thực vật và sông nước đóng vai trò quan trọng để tạo nên yếu tố thẩm mỹ hấp dẫn khách du lịch.Văn hóa bản địa: Các giá trị văn hoá bản địa thường được khai thác với tư cách tài nguyên du lịch sinh thái bao gồm: – Phương thức canh tác, khai thác, bảo tồn và sử dụng các loài sinh vật phục vụ cuộc sống của cộng đồng. – Đặc điểm sinh hoạt văn hoá với các lễ hội truyền thống. – Kiến trúc dân gian, công trình gắn với các truyền thuyết, đặc điểm tự nhiên của khu vực. – Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ gắn liền với cuộc sống cộng đồng. Các di tích lịch sử văn hoá, khảo cổ gắn liền với lịch sử phát triển, tín ngưỡng của cộng đồng.

3. Phát triển du lịch sinh thái bền vững

3.1. Khái niệm về phát triển bền vững

“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai”. Khái niệm phát triển bền vững (Sustainable Development) ra đời rất muộn màng, lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB) vào năm 1987. Trong phát triển bền vững, điều cần chú ý nhất là thỏa mãn các nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn các nhu cầu trong tương lai, đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định tài nguyên thiên nhiên, môi trường sống. Như vậy, phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội một cách bền vững nhờ khoa học công nghệ tiên tiến mà còn phải đảm bảo những điều kiện môi trường thiết yếu cho con người đang tồn tại và cho các thế hệ sẽ tồn tại.

3.2. Quan niệm về phát triển du lịch sinh thái bền vững

3.2.1. Du lịch sinh thái bền vững “Du lịch sinh thái bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai” [1, tr82]. Du lịch bền vững đưa ra kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người, mặt khác vẫn duy trì được sự toàn vẹn về mặt xã hội, sự đa dạng về sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho con người. Phát triển du lịch sinh thái bền vững không những đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững mà còn làm giảm tối thiểu các tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài nguyên do du lịch mang lại và cần chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn tự nhiên. Phát triển du lịch sinh thái bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và các giá trị đạo đức (Allen K, 1993). Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu về du lịch, muốn cho ngành du lịch thật sự có thể phát triển bền vững cần phải dựa vào 3 yếu tố: là thị trường thế giới về những điểm du lịch mới và các sản phẩm du lịch ngày càng gia tăng. là phát triển phải coi trọng việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. là du lịch trực tiếp mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và cải thiện phúc lợi cho cộng đồng. Trong nền công nghiệp du lịch đương đại, cả 3 nhân tố trên gắn bó chặt chẽ với nhau, để cho người ta nhận biết như một ngành du lịch sinh thái, đảm bảo môi trường và cảnh quan cho mọi điểm du lịch. Chính vì vậy, các chuyên gia du lịch đã khẳng định: “Cần chú ý sự tập trung vào du lịch bền vững cùng với vai trò của nó trong sự phát triển cộng đồng và bảo tồn là vô cùng quan trọng”. Du lịch dựa trên cơ sở khai thác các lợi thế từ tự nhiên là hình thức phát triển du lịch nhanh nhất trên thế giới. Trong bối cảnh hiện nay những nước nào biết kết hợp giữa phát triển du lịch, bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng địa phương sẽ là những nước thu được nhiều lợi ích nhất trong hoạt động du lịch. Việt Nam có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và nền văn hóa dân tộc hội đủ điều kiện để phát triển du lịch, song song với quá trình phát triển cần phải luôn luôn nhấn mạnh đến yếu tố bền vững theo nguyên tắc phù hợp với du lịch sinh thái, tức là phát triển du lịch theo hướng đẩy mạnh việc giữ gìn môi trường tự nhiên với đảm bảo lợi ích cộng đồng dân cư trong vùng.3.2.2. Cơ sở của phát triển bền vững trong du lịch sinh thái Giảm đến mức thấp nhất việc khánh kiệt tài nguyên môi trường: đất, nước ngọt, các thủy vực, khoáng sản,…đảm bảo sử dụng lâu dài các dạng tài nguyên không tái tạo lại được bằng cách tái chế, tránh lãng phí, sử dụng ít hơn hoặc thay thế chúng. Như vậy, cần phải sử dụng tài nguyên theo nguyên tắc “nhu cầu sử dụng chúng không vượt quá khả năng bù đắp (tái tạo) tài nguyên đó”. Bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn tính di truyền của các loại động vật và thực vật nuôi trồng cũng như hoang dã. Đảm bảo việc sử dụng lâu bền bằng cách quản lý phương thức và mức độ sử dụng, làm cho các nguồn tài nguyên đó vẫn còn có khả năng phục hồi. Duy trì các hệ sinh thái thiết yếu, đảm bảo cho cuộc sống cộng đồng và nên nhớ rằng sức chịu đựng của các hệ sinh thái trên Trái Đất là có hạn. Nếu có điều kiện thì duy trì các hệ sinh thái tự nhiên, hoạt động trong khả năng chịu đựng của Trái Đất, phục hồi lại môi trường đã bị suy thoái, giữ gìn sự cân bằng các hệ sinh thái.

3.2.3. Nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái bền vững

– Du lịch sinh thái nên khởi đầu với sự giúp đỡ của những thông tin cơ bản nhưng đa dạng của cộng đồng và cộng đồng nên duy trì việc kiểm soát sự phát triển của du lịch. – Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội, văn hóa. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển du lịch sinh thái bền vững. – Chương trình giáo dục và huấn luyện để cải thiện, quản lý di sản và các tài nguyên thiên nhiên nên được thành lập, giảm tiêu thụ, giảm chất thải một cách triệt để nhằm nâng cao chất lượng môi trường. – Duy trì tính đa dạng về tự nhiên, văn hóa,…(chủng loài thực vật, động vật, bản sắc văn hóa dân tộc…). – Lồng ghép các chiến lược phát triển du lịch của địa phương với quốc gia. – Phải hỗ trợ kinh tế địa phương, tránh gây thiệt hại cho các hệ sinh thái ở đây. – Phải thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương, điều này không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường sinh thái mà còn nhằm tăng cường khả năng đáp ứng các thị hiếu của du khách. – Phải biết tư vấn các nhóm quyền lợi và công chúng, tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan, nhằm đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh. – Đào tạo các cán bộ, nhân viên phục vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Nghiên cứu hỗ trợ cho du lịch, phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa khu du lịch, qua đó góp phần thỏa mãn các nhu cầu của du khách. – Du lịch sinh thái mang trong mình nó tính bền vững và là loại hình du lịch bền vững. Nhưng du lịch bền vững lại có khi không phải là du lịch sinh thái. Nét đặc trưng của du lịch bền vững thể hiện rõ: tiết giảm năng lượng, luôn luôn sạch. Điều này thể hiện cả những khu du lịch không phải là sinh thái. Ví dụ: hệ thống nhà hàng, khách sạn là bền vững nhưng không phải là du lịch sinh thái.

4. Tài liệu tham khảo

Lê Huy Bá, Du lịch sinh thái, NXB Khoa học Kỹ thuật.

Trần Hồng Giáp (2002), Kinh tế du lịch, NXB Trẻ.

Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, ĐHQG TPHCM.

Phạm Trung Lương (2000), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXBGD.

Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái – Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, NXBGD.

Bửu Ngôn (2010), Du lịch ba miền, tập 1: Nam, NXB Thanh niên.

Nguyên Tắc Cơ Bản Và Điều Kiện Để Phát Triển Du Lịch Sinh Thái

Du lịch sinh thái là loại hình dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Cùng tìm hiểu về khái niệm du lịch sinh thái là gì và nguyên tắc của du lịch sinh thái ở bài viết sau đây mà Luận văn 1080 tổng hợp được:

+ 5 Mẫu lời mở đầu báo cáo thực tập du lịch hay nhất

+ Định nghĩa, mục đích của marketing du lịch

du-lich-sinh-thai-la-gi

1. Du lịch sinh thái là gì?

Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về DLST lần đầu tiên được …….đưa ra năm 1987: ” Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám phá”

Mặc dù có những quan niệm cơ bản về DLST, song căn cứ vào những đặc thù và mục tiêu phát triển, mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế đều phát triển vì định nghĩa riêng của mình về Du lịch sinh thái.

Một số định nghĩa về Du lịch sinh thái khá tổng quát có thể xem xét đều là: Định nghĩa của Nêpan: ” Du lịch sinh thái là loại hình du lịch đề cao sự tham gia của nhân dân vào việc hoạch định và quản lý các tài nguyên du lịch để tăng cường phát triển cộng đồng, liên kết giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển du lịch, đồng thời sử dụng thu nhập từ du lịch để bảo vệ các nguồn lực mà ngành du lịch phụ thuộc vào nó”

Định nghĩa của Hiệp hội Du lịch sinh thái quốc tế: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường mới được xem là Du lịch sinh thái”.

Định nghĩa của Việt Nam về Du lịch sinh thái là gì?: “Du lịch sinh thái là loại hình dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”.

Du lịch sinh thái là gì

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ nhận làm luận văn cao học Cần Thơ , Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, … để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline? Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

2. Các nguyên tắc cơ bản và điều kiện để phát triển du lịch sinh thái

2.1 Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động Du lịch sinh thái là gì?

Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường. Qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động du lịch sinh thái tạo ra sự khác biệt rõ ràng giữa Du lịch sinh thái với các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên khác. Du khách khi rời khỏi nơi mình đến tham quan sẽ phải có được sự hiểu biết cao hơn về các giá trị của môi trường tự nhiên về những đặc điểm sinh thái khu vực và văn hoá bản địa. Với những hiểu biết đó, thái độ cư xử của du khách sẽ thay đổi, được thể hiện bằng những nỗ lực tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển những giá trị về tự nhiên, sinh thái và văn hoá du lịch.

– Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái. Cũng như hoạt động của các loại hình du lịch khác, hoạt động Du lịch sinh thái tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với môi trường và tự nhiên. Nếu như đối với những loại hình du lịch khác, vấn đề đó bảo vệ môi trường, duy trì hệ sinh thái chưa phải là ưu tiên hàng đầu thì ngược lại. Du lịch sinh thái coi đây là 1 nguyên tắc cơ bản, cần tuân thủ vì:

+ Việc bảo vệ môi trường và duy trì các hệ sinh thái chính là mục tiêu hoạt động của Du lịch sinh thái.

+ Sự tồn tại của Du lịch sinh thái gắn liền với môi trường tự nhiên và các hệ sinh thái điển hình, sự xuống cấp của môi trường, sự suy thoái của các hệ sinh thái đồng nghĩa với sự đi xuống của hoạt động Du lịch sinh thái.

– Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng. Đây được xem là 1 trong những nguyên tắc quan trọng đối với hoạt động Du lịch sinh thái, bởi các giá trị văn hoá bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của các giá trị môi trường của hệ sinh thái ở một khu vực cụ thể. Sự xuống cấp hoặc thay đổi tập tục, sinh hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng địa phương dưới tác động nào đó sẽ làm mất đi sự cân bằng sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực và vì vậy sẽ làm thay đổi hệ sinh thái đó. Hậu quả của quá trình này sẽ tác động trực tiếp đến Du lịch sinh thái. Chính vì vậy, việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng địa phương có ý nghĩa quan trọng và là nguyên tắc hoạt động của Du lịch sinh thái.

– Tạo cơ hội có việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương Đây vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu hướng tới của Du lịch sinh thái. Nếu như các loại du lịch thiên nhiên khác ít quan tâm đến vấn đề này và phần lớn lợi nhuận từ các hoạt động đều thuộc về các Công ty du lịch thì ngược lại Du lịch sinh thái sẽ dành một phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình để đóng góp nhằm cải thiện môi trường sống của cộng đồng địa phương.

Ngoài ra, Du lịch sinh thái luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương, như đảm nhiệm vai trò hướng dẫn viên, chỗ ở, cung ứng các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm cho khác…thông qua đó sẽ tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương.

Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động Du lịch sinh thái là gì

2.2 Điều kiện để phát triển Du lịch sinh thái là gì?

Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức Du lịch sinh thái là một sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu tự nhiên và động thực vật bao gồm: sinh thái tự nhiên (…) sinh thái thực vật, sinh thái nông nghiệp, sinh thái khí hậu và sinh thái nhân văn. Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là 1 dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài.

– Để đảm bảo trình giáo dục, nâng cao được hiểu biết cho khách Du lịch sinh thái. Người hướng dẫn viên ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt nên còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương.

– Hoạt động Du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc, các nhà điều hành Du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm tạo mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương với khách du lịch.

– Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động Du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó Du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về ” sức chứa” được hiểu từ 4 khía cạnh:vật lý, sinh học, tâm lý học và xã hội học. ở góc độ vật lý. Sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa du khách mà khu vực có thể tiếp nhận.

+ Ở góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa du khách mà khu vực có thể tiếp nhận.

+ Ở góc độ xã hội: sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá – xã hội, kinh tế – xã hội của khu vực.

+ Ở góc độ sinh học: sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà nếu lớn hơn sẽ vượt qua khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động sinh thái do hoạt động của du khách và tiện nghi họ sử dụng gây ra.

+ Ở góc độ tâm lý: sức chứa được hiểu là giới hạn lượng khách mà nếu vượt quá thì bản thân du khách sẽ bắt đầu cảm thấy khó chịu về sự đông đúc và hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của du khách khác.

Tiểu Luận Kinh Nghiệm Phát Triển Du Lịch Của Thái Lan Và Singapore

Tài liệu tham khảo………………………………………………………………30 1

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay cùng với xu thế hội nhập toàn cầu, cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Vì vậy, việc đi du lịch để tìm hiểu, khám phá, giải trí…có thể coi là nhu cầu không thể thiếu được. Chính vì điều đó mà rất nhiều quốc gia đã coi trọng và đầu tư rất nhiều để quảng bá hình ảnh đất nước và con người của quốc gia mình đến toàn thế giới góp phần làm cho ngành du lịch của quốc gia đó phát triển hơn. Không cần phải nói bởi hầu như ai cũng biết được ta có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Bởi vì, bên cạnh những thắng cảnh nổt tiếng được UNESCO công nhận là những di sản thế giới mà còn có bao nhiêu tiềm năng, thế mạnh để ngành công nghiệp không khói phát triển, nên một số nơi đã mạnh dạn coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên ngành du lịch của chúng ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Hiện nay lượng du khách quốc tế đến nước ta chỉ ở mức hơn 2,5 triệu mỗi năm trong khi đất nước Singapore nhỏ bé với dân số vẻn vẹn có 4 triệu người mà hầu như không có cảnh quan sông núi, thác nước thiên nhiên nhưng mỗi năm cũng đón tới hơn 6 triệu lượt du khách. Tương tự, chính phủ Thái Lan đã đưa ra kế hoạch thu hút 13 triệu du khách quốc tế. Làm cách nào mà du lịch của họ có thể làm được điều đấy? Chính vì vậy em chọn đề tài sau: “Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan và Singapore”. Em xin chân thành cảm ơn Th.S Lê Trung Kiên đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề án.

2

NỘI DUNG 1. Tìm hiểu hoạt động du lịch: Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến. Hội đồng Lữ hành và du lịch quốc tế (World Travel anh Tourism Council – WTTC) đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch ngày nay là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống. Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài người. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra về những động lực tạo ra những cuộc hành trình trường kỳ như vậy. Một giả thuyết cho rằng những người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy hiểm. Một giả thuyết khác lại cho rằng, con người quan sát sự di chuyển của loài chim, muốn biết chúng từ đâu đến và chúng bay đi đâu, nên họ đã di chuyển mặc dù họ không thiếu ăn nơi họ sinh sống. Tức là từ xa xưa, con người đã luôn có tình tò mò muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài nơi sinh sống của họ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có cảnh quan ra sao, muốn biết về các dân tộc, nền văn hoá, các động vật, thực vật và địa hình ở những vùng khác hay quốc gia khác. Mầm mống đầu tiên của hoạt động kinh doanh du lịch bắt đầu xuất hiện từ cuộc phân chia lao động xã hội lần thứ hai. Biểu hiện của hoạt động kinh doanh du lịch trở nên rõ nét hơn, khi ngành thương nghiệp xuất hiện vào thời đại chiếm hữu nô lệ, tức là vào giai đoạn có sự phân chia lao động lần thứ ba của xã hội loài người. Như vậy, du lịch là hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp và trong quá trình phát triển, nội dung của nó không ngừng mở rộng và ngày càng phong phú. Trên thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều nước không những đã đem lại lợi ịch kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội…ở nhiều nước trên thế giới, ngành du lịch phát triển với tốc độ khá nhanh và trở thành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, nguồn thu nhập từ ngành du lịch đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội.

3

2. Khái quát về đất nước, con người Thái Lan và Singapore: 2.1 . Đất nước Thái Lan: Dân số : 62 triệu (Theo số liệu thống kê năm 1999). Diện tích : 510.000 Km2 Đồng tiền Thái Lan: Đồng Bath, có tỷ giá: 1USD=40 Bath… 2.1.1. Vị trí địa lý, thủ đô: Theo tiếng Thái, Thái Lan có nghĩa là “xứ sở của tự do”. Thủ đô Bangkok nghĩa là “thành phố của những thiên thần”. Vương quốc Thái Lan nằm ở trung tâm Đông Nam Á. Phía Tây và phía Bắc giáp với Myanmar. Phía Bắc và Đông Bắc giáp Lào. Phía Đông Nam giáo với Campuchia và phía Nam giáp với Malaysia. Thái Lan được chia làm 6 vùng chính: Phía Bắc là núi đồi sử dụng nhiều voi làm việc cho lâm nghiệp, thời tiết mùa đông đủ lạnh để trồng hoa quả ôn đới như dâu tây, đào. Cao nguyên Đông Bắc phần lớn có sông MêKông chảy qua là nơi văn minh đồ đồng lâu nhất thế giới, phát triển 5.600 năm về trước. Đồng bằng miền Trung là một trong những vùng trồng hoa quả và lúa màu mỡ nhất thế giới. Đồng bằng ven biển phía Đông với rất nhiều bãi cát mịn phát triển du lịch. Những thung lũng và vùng núi phía Tây thuận lợi cho việc phát triển thủy điện và bán đảo phía Nam có cảnh quan đẹp và nguồn lợi kinh tế như mỏ thiếc, cao su và nghề cá. 2.1.2. Khí hậu, ngôn ngữ, tôn giáo Thái Lan có khí hậu nhiệt đới với ba mùa đặc trưng: Mùa nóng và khô từ tháng 2 đến tháng 5 (nhiệt độ trung bình 34o, độ ẩm 75%), mùa mưa nhưng nắng nhiều từ tháng 6 đến tháng 10 (nhiệt độ trung bình trong ngày là 29oC, độ ẩm 87 %), và mùa mát từ tháng 11 đến tháng 1 (nhiệt độ giao động từ dưới 20oC tới 32oC, độ ẩm giảm). Ban đêm ở miền Bắc và Đông Bắc, nhiệt độ xuống thấp hơn. Miền Nam có khí hậu rừng m ưa nhiệt đới với nhiệt độ trung bình 28oC. Ngôn ngữ là tiếng Thái Lan, tiếng Anh cũng được sử dụng rộng rãi, nhất là ở Bangkok. Tôn giáo: Phật giáo (95%), Hồi Giáo (4%) và các tôn giáo khác (1%). Dân cư : Gồm có người Mon, Khmer và Thái. Thủ đô cũ là Ayut Thaya, thủ đô hiện nay là Bangkok có khoảng 10 triệu dân. Sân bay Quốc tế Bangkok ( Đôn Mương) cách trung tâm 35 km, đi mất 40 phút, có 40 cửa, hàng năm đón 25 triệu hành khách, cứ 4 phút có một máy bay hạ cánh, cất cánh. 4

Thế kỷ 11,12 người Khmer chiếm rất nhiều vùng đất Thái Lan. Đầu những năm 1200, người Thái đã thành lập những bang nhỏ phía Bắc ở Lanna, Phayao và Sukhothai. Năm 1238, hai thủ lĩnh người Thái nổi dậy chống Khmer và thành lập nên vương quốc Thái thực sự độc lập đầu tiên ở Sukhothai, nhưng Sukhothai suy yếu dần vào những năm 1300 và dần dần trở thành Vương quốc chư hầu (Lệ thuộc) của Ayutthaya, một vương quốc trẻ năng động nằm ở vùng Nam trong thung lũng sông Chao Phraya. Vương quốc Ayutthaya thành lập từ 1350 có thủ đô cùng tên cho đến 1767 khi thủ đô bị bọn xâm lược phá hủy. Thủ đô Ayutthaya tồn tại 417 năm dưới sự cai trị của 33 nhà vua, người Thái đã thành công rực rỡ trong việc phát huy nền văn hóa đầy bản sắc dân tộc. Họ đã giành được đất đai từ người Khmer và tiếp xúc với các nước Ả Rập, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật và Châu Âu. Năm 1782 Vua đầu tiên của triều đại Chakri là Rama I đã xây dựng thủ đô mới của ông trên một khu đất của một làng ven sông gọi là Bangkok (nghĩa là Làng có nhiều cỏ dại). Hai Vua Mongkut (Rama IV) trị vì từ 1851 đến 1868 và con ông Chulalongkorn (Rama V) cai trị từ 1868 đến 1910 đã cứu Thái Lan khỏi chế độ thuộc địa Phương Tây thông qua con đường ngoại giao khéo léo và đã lựa chọn con đường hiện đại hóa đất nước. Vua Thái Lan hiện nay là Bhumibol Adulyadej (Rama IX). Thái Lan là một nước quân chủ lập hiến. Kể từ năm 1932 các vua Thái Lan (kể cả vua đang cai trị) thực thi quyền lập pháp thông qua Quốc hội, quyền hành pháp thông qua một nội các do thủ tướng đứng đầu và quyền tư pháp thông qua tòa án. 90% người Thái theo đạo Phật. Phật giáo Tiểu thừa có ảnh hưởng lớn trong đời sống hàng ngày. Phật giáo lần đầu tiên xuất hiện ở Thái Lan thế kỷ thứ 3 trước công nguyên tại vùng Nakhonphatho, nơi có tượng đài Phật giáo lớn nhất thế giới. Sau đó Quốc vương Phật giáo Ân Độ Asoca (267-227 trước công nguyên) gửi các giáo sĩ đến Đông Nam Châu Áđể truyền đạo Phật. Thái là ngôn ngữ chính để nói và viết. Tiếng Anh được sử dụng rất rộng rãi đặc biệt ở Bangkok. Các biển hiệu song ngữ Thái – Anh treo khắp mọi nơi. Thái Lan phát triển về kinh tế, du lịch, là nước đứng đầu xuất khẩu gạo, đã giải quyết được nạn thất nghiệp nhưng hiện còn thiếu công nhân có tay nghề bậc cao. Thu nhập bình quân theo đầu người là 1200 Đôla Mỹ/ năm. Năm 1995 Thái Lan đón 7 triệu khách du lịch, ở trung bình 1 tuần trên đất Thái Lan. Phương tiện đi lại ở Bangkok: Ôtô buýt công cộng không điều hòa rất rẻ, có nhiều giá từ 3 đến 5 bath và đi bất cứ nơi đâu trong nội thành. Xe có điều hòa giá 5 đến 15 bath đi trong nội thành. Taxi của khách sạn phải mặc cả trước giá 5

khoảng từ 50-300 bath chạy trong 5 thành phố, Túc Túc như xe lam ở Việt nam giá chạy trong nội thành từ 30-100 bath.

2.2 Đất nước Singapore: Dân số : 3,476 triệu Diện tích : 639.000 km2 Đơn vị tiền tệ : Đô la Singapore (SGD) Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi nhiều đảo nhỏ khác. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Juhor của Malaysia – một con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor – Singapore ở phía Bắc, băng qua eo biển Tebrau và chỗ nối thứ hai Tuas, một cầu phía Tây nối với Juhor. Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m. Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía Bắc Singapore bao quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính phủ chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân phối đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi tiết cho việc sử dụng đất ở 55 khu vực. Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay (xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh)), và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030. Singapore có khí hậu nhiệt đới ẩm với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ thay đổi trong khoảng 22 °C đến 34°C (72°-93°F). Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong những trận mưa lớn kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4°C (65,1°F) và 37,8°C (100,0°F). Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah . Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví 6

dụ như Vườn Thực vật Quốc gia. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế – một loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu.

3. Thực trạng phát triển du lịch ở Thái Lan và Singapore: 3.1. Vì sao Thái Lan hấp dẫn du khách: “Người ta có thể biến không thành có, biến có thành không” và du lịch Thái Lan là một minh chứng của những người biến không thành có. Thái Lan lại tiếp tục thuyết phục thế giới trong lĩnh vực du lịch khi được nhận giải “The world’s best tourist country 2006” (Quốc gia du lịch tốt nhất thế giới năm 2006) do Tạp chí The Travel News Na Uy trao tặng. Giải thưởng này được tổ chức liên tục 11 năm qua, do 300 thành viên ngành công nghiệp du lịch Na Uy bầu chọn. Ngoài ra, Tạp chí The Luxury Travel (úc) cũng đã công bố “Danh sách vàng năm 2006” cho các giải thưởng trong ngành du lịch và Thái Lan cũng giành được nhiều giải cao: được xếp thứ 8 và là quốc gia duy nhất của châu á nằm trong danh sách 10 nước đoạt giải “Quốc gia tốt nhất”; Bangkok được xếp thứ 8 trong số các thành phố giành giải “Thành phố tốt nhất”; 8 khu nghỉ mát của Thái Lan lọt vào danh sách top 30 “Khu nghỉ mát tốt nhất”… Tạp chí Travel and Leisure (Mỹ) đã bình chọn 10 thành phố du lịch tốt nhất châu á. Trong đó, 2 thành phố đầu tiên thuộc về Thái Lan (xếp thứ nhất là thủ đô Bangkok và thứ 2 là TP Chiang Mai); Thành phố Kathmandu của Nepal (xếp thứ 3)… Hồng Công (5) và Bắc Kinh (8)… Thực tế cho thấy, Thái Lan có 3 tuyến du lịch nổi tiếng là: Bangkok – Pattaya; Bangkok – Phuket; Bangkok – Chiang Mai. Là người rất thích đi du lịch nên vì vậy em cũng đã có dịp được đặt chân đến đất nước chùa Vàng của các cô gái Thái dịu dàng và xinh đẹp. Em đã chọn Tour Hà Nội – Băngkok – Pattaya – Bangkok – Hà Nội để đi du lịch tìm hiều về đất nước nổi tiếng biết làm du lịch, đất nước của chùa chiền và những nụ cười thân thiện… Để mọi người có thời gian mua hàng và nghỉ ngơi, nên em đã tăng thêm 1 ngày so với Tour bình thường là 6 ngày. Nếu đi Tour Bangkok – Pattaya thì mọi người đều đến và thưởng thức các điểm tham quan giống nhau như: Tiger Zoo với các trò biểu diễn của các chú cá sấu, heo làm toán, heo chạy đua; 7

đáp canô cao tốc thăm đảo San hô và tắm biển ở các bãi biển đẹp, tham gia các trò chơi giải trí trên bãi biển như: tham dự trò chơi dù bay, đua môtô nước, lướt sóng, lặn biển giữa rừng san hô dày đặc; Vườn nhiệt đới Noong Nooch. Mọi người được thưởng thức các trò biểu diễn đặc sắc của voi, xem biểu diễn nghệ thuật truyền thống của Thái Lan, thăm vườn Hoa Lan xuất khẩu. ấn tượng nhất là buổi trình diễn Alcaza Show (Show Pêđê. ShowBoy) nổi tiếng do các hoa hậu, ngôi sao Pêđê biểu diễn và Tiffany Show (ShowGirl); Marine Park – nơi tập trung các loại thú quý hiếm trên thế giới, xem các chương trình biểu diễn đặc biệt của các loài thú, thăm trại rắn. Du khách sẽ thấy thú vị với Vườn thú lộ thiên Safariworld, xem biểu diễn cá heo, điệp viên 007, màn trình diễn của các chàng cao bồi Tây Âu; Cung điện Hoàng Gia, chùa Phật Ngọc, chùa Vàng với tượng Phật nằm. Trên hành trình, du khách còn được nhiều cơ hội tự dâng hiến những đồng tiền tiết kiệm khi đến thăm các trung tâm mua bán đá quý hay mua sắm tại các siêu thị: BigC, Lotus, Sogo Market, Tokyu và chợ bán buôn quần áo Pratunam… Hay tự do dạo chơi chợ đêm PatPong, xem Showgirl hoặc thưởng thức các loại hoa quả tươi ngon của Thái Lan. Pattaya là một trong những địa danh nổi tiếng của Thái Lan. Hàng năm, khoảng 2/3 các tour đến Thái Lan thế nào cũng vòng qua đây một hai ngày cho bà con dạo chơi và trong đó có thể xem Alcaza show hoặc Tiffany Show biểu diễn. Thái Lan còn có tuyến du lịch nổi tiếng thế giới là BăngKok – Phu Ket. Đảo Phú Két được mệnh danh là hòn đảo của thiên thần! Đây là nơi nghỉ ngơi lý tưởng cho du khách sau những ngày làm việc căng thẳng và mệt mỏi. Là một hòn đảo có bờ biển dài, mội trường trong sạch, nước trong xanh và dải cát trắng mịn, du khách có thể thả mình cả ngày trong làn nước mà không thấy sự chán. Hòn đảo này mang riêng trong mình một dáng vóc của sự sang trọng, quyến rũ không bao giờ ngừng…. Thái Lan từ lâu đã được mệnh danh là xứ sở của những nụ cười thân thiện và để lại trong lòng du khách những kỷ niệm khó phai. Ai đã có dịp qua đây chỉ mong có điều kiện để quay lai. Bạn cũng có điều kiện hãy khám phá vùng đất phía Bắc Thái Lan với khí hậu ôn hòa quanh năm. Tìm hiểu về đời sống những người dân tộc thiểu số đầy nhiệt tình và thân thiện. Muốn vậy hãy tham gia tuyến du lịch nổi tiềng Thái Lan là BăngKok – Chiang Mai. Đây cũng là 2 thành phố được một tạp chí Mỹ xếp thứ nhất và nhì về thu hút khách du lịch của châu á. Thắng cảnh của họ, có thể nói, khó so sánh với Việt Nam. Nhưng cái đầu làm du lịch của họ hơn ta nhiều bậc. Họ giăng chiếc lưới đầy hấp dẫn cho du khách sa vào. Đặc biệt là họ kết hợp du lịch với thương mại, nên các sản phẩm của Thái Lan được bán cho du khách với một số lượng khủng khiếp. 8

3.1.1. Đầu tiên họ dụ khách vào trước: Bất cứ ai đặt chân đến sân bay quốc tế Bangkok cũng dễ dàng “ngửi” được cái không khí sặc mùi du lịch. Sân ga đông nghẹt người, và có thể nhận ra ngay phần lớn là du khách. Những đoàn khách rồng rắn đi theo người cầm cờ là các hướng dẫn viên du lịch. Có rất nhiều người cho rằng “Đi Thái Lan chơi rẻ hơn Hà Nội. Từ TPHCM đi Hà Nội, tiền máy bay thôi đã mất đứt 200USD/vé khứ hồi. Còn Thái Lan chỉ mất 305USD là chơi được mấy ngày vô tư”. Tôi thực sự kinh ngạc bởi không hiểu tại sao chỉ với số tiền khiêm tốn như vậy mà các hãng du lịch có thể tổ chức cho du khách đến Thái Lan chơi “vô tư” 5 ngày, và người Thái có nghệ thuật gì mà hấp dẫn hàng vạn du khách mỗi ngày? Tìm đến các địa chỉ du lịch nổi tiếng của Thái Lan để tự tìm câu trả lời. Với em, Thái Lan không có điểm nào thực sự gây ấn tượng bởi cái đẹp hay sự độc đáo. Nhưng lạ một điều là mọi nơi đều hấp dẫn được du khách. Xe loại hai tầng đưa đón khách đậu san sát. Du khách chen vai nhau chật cứng… Ví dụ như chùa Phật Vàng ở khu phố người Hoa, người ta tứ xứ, da vàng, da đen, da trắng, mũi cao, mũi thấp kéo vào ùn ùn. May mà tượng phật quá cao lớn nên từ xa trông vào cũng thấy được mặt phật, không thì khó khăn cho những ai có thành tâm chiêm bái. Còn ở Hoàng cung của Hoàng gia Thái Lan, một điểm du lịch nổi tiếng số một của Bangkok thì không thể tưởng tượng được người đâu ra mà đông đến thế. Hôm tôi đến trời nắng như đổ lửa, du khách chen chúc trong cái nóng hầm hập. Nắng thế, nóng thế, nhưng trông vẻ mặt ai cũng tỏ ra rất thoả mãn, khoan khoái. Ở đây trung bình mỗi ngày có khoảng 10.000 lượt người vào xem, cao điểm có 30.000 lượt người. Em cứ suy nghĩ một điều, chùa Phật Vàng không đẹp, Hoàng cung cũng bình thường. Ở VN có rất nhiều chùa đẹp hơn nhiều, Hoàng thành Huế uy nghi và hoành tráng, bốn bề thành luỹ, trước mặt là dòng sông Hương, xa xa là những ngọn núi Ngự Bình, dãy núi Kim Phụng. Có thể nói, Hoàng thành Huế có phong cảnh hữu tình, kiến trúc độc đáo, phối hợp với cả cụm các lăng tẩm đền đài đa dạng, là di sản văn hoá thế giới. Vậy mà sống ở Huế nhiều năm, đến Huế cũng nhiều lần mỗi dịp lễ hội, nhưng chưa bao giờ em thấy được cảnh có đông du khách như ở đây? Phải nói trước tiên, Thái Lan có chủ trương phải thu hút thật đông du khách bằng giá. Người Thái có chủ trương “số đông trước”. Để cạnh tranh với các nước có ngành du lịch nổi tiếng trong khu vực như Singapore, Thái Lan bắt buộc phải phối hợp với các Cty du lịch của các nước để xây dựng tour với giá rẻ nhất. Để làm được điều đó, các khách sạn, nhà hàng, điểm vui chơi cùng thống nhất hạ giá cho khách tour. Ví dụ như hãng máy bay bán vé group (nhóm) giá hạ 30 – 40%, khách sạn cũng giảm 40 – 50%, nhà hàng 9

và các điểm du lịch thì bán vé đoàn, tính ra mỗi du khách chỉ mất 20% so với đi lẻ. Ngoài cạnh tranh về giá, các điểm du lịch của Thái Lan đều là của tư nhân, họ chủ động và linh động trong kinh doanh, biết xây dựng nhiều chương trình, màn biểu diễn phong phú, hấp dẫn. Như tại vườn thú Safari, chủ nhân của điểm du lịch này cho du khách thưởng thức những động vật thả hoang trong khu vườn 600ha. Sư tử, hổ, gấu, hươu, nai thả tự do không nhốt chuồng. Thú nuôi phong phú. Thấy bầy hươu cao cổ mấy chục con, mà thương cho TPHCM mới gom góp chắt chiu mua cho Thảo Cầm viên Sài Gòn được hai con hươu cao cổ “thiếu nhi” cuối tháng vừa qua. Xem thú xong, du khách được sang một khu riêng biệt để xem biểu diễn cá heo và nhiều show khác tuỳ thích. 3.1.2. Tiếp theo đó là họ “móc túi” sau: Có tiền mới di du lịch. Đi du lịch là để xài tiền. Nắm chắc được yếu tố này nên cỗ máy du lịch Thái Lan vận hành theo kiểu thu hút du khách vào càng nhiều càng tốt, sau đó mới “móc túi” một cách hợp lý nhất. Mấy ngày lang thang ở Thái Lan, em thấy người Thái rất hiền, buôn bán đàng hoàng, thân thiện. Em không thấy cảnh chèo kéo bán hàng, làm tội làm tình du khách như ở VN. Những cô, những cậu săn ảnh du khách, sau đó bán lại, mua hay không mua cũng được. Nhưng nhiều người sẵn sàng trả tiền cho một tấm ảnh kỷ niệm của mình. Nhẩm tính nếu với tỉ lệ 3/10 người chịu mua (150 baht/tấm), thì mỗi ngày tại điểm du lịch Hoàng cung, tiền bán ảnh thu được 600.000 baht (khoảng 240 triệu đồng), chưa kể các điểm khác như sân bay, vườn bướm… Mua lại tấm ảnh mình bị chụp là một chuyện, chuyện khác là tự mình xin được chụp. Như sau mỗi show voi biểu diễn ở Vườn hoa Nong Nooch thuộc thành phố Pattaya, du khách không khỏi bị quyến rũ bởi những chú voi. Và ai xin đứng cạnh voi, lên ngồi trên vòi voi để chụp ảnh. Giá trả cho voi là 50 baht (khách tự chụp). Chưa kể là cưỡi voi, bỏ ra 200 baht. Ngoài vô vàn cách lấy tiền đáng yêu trên, ngành du lịch Thái Lan còn kết hợp với các cơ sở sản xuất để “móc túi” khách vô cùng nghệ thuật. Điển hình như du khách sẽ được đi tham quan viện nghiên cứu nọc độc rắn ở Bangkok. Sau khi xem màn biểu diễn “hôn” rắn rùng rợn của nghệ nhân Thái, du khách sẽ được đưa vào phòng nghe thuyết trình về các dược liệu sản xuất từ rắn. Khách nước nào sẽ có người thuyết trình bằng tiếng nước đó, dược sĩ mà giới thiệu sản phẩm cực kỳ chuyên nghiệp. Nghe xong, khó lòng từ chối mua những lọ thuốc quý hiếm mặc dù nó rất đắt tiền (trung bình 100USD/lọ 80 viên). Có một đoàn khoảng 20 người, mua 10

3.2. Vì sao Singapore hấp dẫn du khách: Quốc đảo nhỏ bé Singapore chỉ có vẻn vẹn 682,7 km2 và với dân số chỉ có hơn 4,4 triệu người. Vậy mà năm 2005 vừa qua đã đón tiếp tới 8,3 triệu du khách. Nhiều người trong số này đã đến nhiều lần. Khách Việt Nam đi theo tuyến hàng không giá rẻ ( lấy vé sớm chỉ có 99 USD vé khứ hồi !) hôm nào cũng kín máy bay. Đội quân dịch vụ du lịch của nước này chỉ có 150 000 người nhưng đã đem về cho đất nước 9,6 tỷ USD ( 2005 ). 3.2.1. Một thiên nhiên không ưu đãi Tôi đã đến đây nhiều lần và lúc nào cũng nặng lòng suy nghĩ thiên nhiên đâu có ban tặng cho Singapore nhiều ưu đãi như nước ta, nhưng vì sao lại hấp dẫn được nhiều du khách đến thê? Riêng chuyện không đủ nước ngọt mà phải mua thường xuyên từ Malaysia đã thấy khó khăn biết ngần nào. Một đất nước mới giành được độc lập từ năm 1965 và đâu có một nền văn hóa gì riêng biệt. Cả nước có 76% là người Hoa, 13,7% là người Mã Lai , 8,4% là người Ấn Độ, và 1,8% là các dân tộc khác. Nói với nhau phải bằng…tiếng Anh (!), học hành từ 11

Tiểu học đến Đại học cũng đều bằng tiếng Anh. Một bờ biển dài tới 193 km nhưng làm gì có bãi tắm ( trừ một bãi tắm nhân tạo ở đảo du lịch Sentosa ). Cả nước không có một ngọn núi nhỏ nào, nơi cao nhất (Bukit Timah) chỉ cao hơn mặt biển có 166m (!). Không có nông nghiệp nên lương thực, thực phẩm đều phải nhập hết từ nước ngoài. Chi phí nhập khẩu hàng năm cho lĩnh vực này lên đến trên 5,7 tỷ USD, cho dầu và mỡ là 529 triệu USD, cho rượu và thuốc lá là 1,85 tỷ USD (!). Chi phí về nhập khẩu các nguồn năng lượng năm 2004 lên đến 41,45 tỷ USD … 3.2.2. Một xã hội phồn vinh Bình quân thu nhập đầu người ở Singapore cao tới 29700 USD / năm , hơn cả Nhật Bản ( 29400USD / năm ), mặc dầu mật độ dân số đứng hàng thứ hai trên thế giới ( chỉ sau có Monaco!). Tuổi thọ của người dân Singapore được coi là cao thứ nhì thế giới ( bình quân 81,6 tuổi ), chỉ sau có Andora ( 83,5 tuổi) , cao hơn cả Nhật Bản ( 81,2 tuổi ). Kim ngạch xuất khẩu từ Singapore năm 2005 cao tới 212,4 tỷ USD trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ là 187,5 USD (!). Tổng thu nhập quốc nội năm 2005 lên tới 131,3 tỷ USD. Singapore chỉ là một dấu chấm nhỏ xíu trên bản đồ thế giới nhưng là một thành phố hiện đại. Nhà cửa phần lớn được xây dựng theo quy hoạch từ sau ngày độc lập và gồm nhiều nhà cao tầng rất đẹp. Đường phố đầy những hàng cây xanh nhập nội với tán lá xòe rộng như được uốn từ nhỏ. Dòng sông Singapore thơ mộng và những bờ biển được trang điểm bằng các hàng ăn hải sản chạy dài. Không thấy ai nghèo khổ. Tất cả các khuôn mặt đều rạng rỡ và thân thiện. Ai cũng tự giác chấp hành pháp luật nên không có bất kỳ ai vứt ra đường dù một chiếc giấy gói kẹo hay một mẩu thuốc lá. 3.2.3. Một thị trường du lịch Du khách cảm thấy ở Singapore một tuần vẫn không thiếu chỗ tham quan. Đó là đảo du lịch Sentosa với các khu nghỉ ngơi đẳng cấp cao (Sijori Resort, The Sentosa Resort & Spa, Shangri-La’s, Rasa Sentosa Resort…Trên đảo có biết bao nhiêu chỗ để chơi và để xem. Đó là Thủy cung (Underwater World), là Tháp Carlsberg (cao 110m), là Khu âm nhạc nước ( Musical Fountain ), là Khu trượt xe cảm giác mạnh (Sentosa Luge), là Sân gôn (Sentosa Golf Club), là Khu biểu diễn Cá heo (Dolphin Lagoon), là Vườn Bướm và Côn trùng, là Triển lãm Hình ảnh Singapore, là Tháp Sư tử biển mà du khách có thể leo lên bên trong đến tận miệng sư tử…Năm 2004 riêng hòn đảo nhỏ bé này đã đón tiếp tới 5 triệu lượt du khách. Làm gì cũng phải chi tiền: đi cáp, đi thăm Thủy cung, nghe nhạc nước, trượt xe… Riêng khách Việt Nam đông nghịt trên đảo và thi nhau móc túi để mua vé (!). Ngoài hòn đảo Sentosa còn biết bao chỗ thú vị khác để tham quan: Công 12

cũng rất phát triển ở Singapore. Hiện có 19.207 sinh viên đang theo học tại 11 trường loại này. 3.2.6. Một trung tâm điều trị y tế có uy tín Trong những năm gần đây Singapore còn nổi lên như một trung tâm khám chữa bệnh thu hút rất đông người nước ngoài. Nổi bật lên là việc khám và điều trị ung thư, bệnh thận, bệnh thần kinh. Mỗi năm trung bình có tới 150 000 bệnh nhân đến từ nước ngoài, mặc dầu chi phí không phải là thấp. Các bác sĩ Singapore cũng nổi tiếng về việc ghép nội tạng . Từ năm 1987 đã ra đời Tổ chức ghép phủ tạng ( HOTA- The Human Organ Transplant Act ) và từ đó đến nay hàng năm đã cứu sống được rất nhiều người nhờ ghép thận, ghép gan, ghép tim và ghép giác mạc. Luật pháp Singapore cho phép sử dụng nội tạng của những người đột tử do tai nạn giao thông để cứu sống người khác.

4. Đất nước Việt Nam và thực trạng phát triển du lịch của nước ta: 4.1. Đất nước Việt Nam: Diện tích: 329.241 km² Dân số: 80.902.400 người (năm 2003) Thủ đô: Hà Nội Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến: 102º 08′ – 109º 28′ đông Vĩ tuyến: 8º 02′ – 23º 23′ bắc Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu: Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa Địa hình: Lãnh thổ Việt Nam bao gồm 3 phần 4 là đồi núi Tài nguyên: Việt Nam có nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như: tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng.

Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền nhiệt độ cao. Nhi ệt độ trung bình năm từ 22ºC đến 27ºC. Hàng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. S ố 14

giờ nắng khoảng 1.500 – 2.000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm². Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Trên nền nhiệt độ chung đó, khí hậu của các tỉnh phía bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Việt Nam chịu sự tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Châu Á. So với các nước này, Việt Nam nhiệt độ về mùa đông lạnh hơn v à mùa h ạ ít nóng hơn. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, từ giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Tài nguyên rừng Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu… Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh chi, mộc nhĩ, mật ong… Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ… còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ… Rừng của Việt Nam hiện đang bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên sinh. Nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn lén nên gỗ và chim thú ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quý đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Tài nguyên thuỷ hải sản Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về tôm, cá… trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển… Nhiều loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực… Có những loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc… Biển Việt Nam cũng là tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu.

15

Tài nguyên nước Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh rạch, biển… chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống… Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8 trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì…); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit…). Tài nguyên du lịch Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)…; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình)…; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình – Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)… Với 3.260 km bờ biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu).. Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu… Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật – văn hoá khác nằm rải rác ở

16

khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. Nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình)…

4.2. Thực trạng du lịch Việt Nam hiện nay: Mặc dù chịu nhiều bất lợi: thiên tai xảy ra liên tiếp, giá x ăng-d ầu thế giới tăng dẫn tới giá tiêu dùng, dịch vụ trong nước cũng tăng cao, dịch cúm gia cầm tiếp tục diễn biến phức tạp, nhìn chung, du lịch Việt Nam vẫn phát triển mạnh mẽ cùng nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước trong một môi trường an ninh, chính trị ổn định, đời sống xã hội được cải thiện v à nâng cao. Báo chí nước ngoài đều đánh giá cao về du lịch Việt Nam v ới nh ận xét chung: Việt Nam là điểm đến mang nhiều nét Á Ðông hấp dẫn, gợi mở những khám phá, nhưng điều quan trọng nhất, đây còn là điểm đến thân thiện, an ninh được bảo đảm trong một thế giới đầy biến động. So với các nước khu vực, từ chỗ nằm trong nhóm cuối của ASEAN, trong m ười năm, Việt Nam đã vươn lên vị trí trung bình về lượng khách du lịch nhưng lại là nền du l ịch đầy tiềm năng. Một điểm nhấn quan trọng của du lịch Việt Nam là việc hoàn thiện và thể chế hóa các văn bản pháp luật với sự ra đời của Luật Du lịch sau m ột quá trình dài soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp và chỉnh lý nội dung. Luật Du lịch được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ bảy, ngày 14-6-2005, vượt trước kế hoạch năm tháng. Luật có nhiều điểm quy định mới và phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với Pháp lệnh Du lịch năm 1999, l à n ền t ảng pháp lý quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và hoạt động du lịch trong giai đoạn mới, thể hiện quan điểm, chính sách của Ðảng, Nhà nước phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo; đồng thời cho thấy tính liên vùng, liên ngành, xã hội hóa của du lịch và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an to àn xã h ội, kh ắc phục các vi phạm trong kinh doanh, bảo vệ tài nguyên, môi tr ường; bảo vệ quyền và lợi ích của du khách, nâng cao được hình ảnh của du l ịch Việt Nam. Ngành du lịch đang khẩn trương xây dựng các d ự th ảo v ăn b ản h ướng 17

dẫn dưới luật nhằm lấy ý kiến đóng góp để trình Chính phủ ban hành kịp thời trước khi Luật Du lịch chính thức có hiệu lực từ tháng 1-2006. Trong hợp tác và hội nhập quốc tế, Việt Nam tham gia tích cực các di ễn đàn hợp tác du lịch song phương, đa phương của khu vực và thế giới, đồng thời tranh thủ được sự hỗ trợ, tư vấn cùng các nguồn vốn phát tri ển của các nước và tổ chức quốc tế. Phương án mở cửa thị trường dịch vụ du lịch, phù hợp lộ trình, mục tiêu Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương m ại thế giới và đàm phán mở cửa dịch vụ hướng tới xây dựng khu vực tự do ASEAN v ào năm 2010 cũng đang được ngành du lịch nghiên cứu chuẩn bị. Nhìn lại năm 2006, có thể thấy du lịch Việt Nam đã có bước phát tri ển ngoạn mục. Hoạt động quản lý nhà nước được tăng cường, công tác quảng bá, kinh doanh đúng hướng, duy trì được tính ổn định và ngày càng chuyên nghiệp. Thành tựu nêu trên đã và đang tạo đà phát triển cho du lịch trong năm 2007. Nhiều vận hội mới đang mở ra trước du lịch Việt Nam cùng nh ững thách thức, trở ngại vẫn còn tồn đọng từ nhiều năm nay. Tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể có những biến động đòi hỏi ngành du lịch phải có sự chu ẩn bị với những phương án, biện pháp phòng ngừa để chủ động đối phó, điều chỉnh, nhằm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển. Mặt khác, du lịch Việt Nam vẫn còn có m ột khoảng cách khá xa v ới các nước du lịch phát triển trong khu vực, bộc lộ rõ r ệt ở các h ạn ch ế về ch ất lượng dịch vụ; sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu, sức cạnh tranh chưa được cải thiện; còn thiếu sự phối hợp trong điều hành, quản lý, kinh doanh lữ hành; quy hoạch; đầu tư cơ sở hạ tầng; đào tạo nhân lực và xúc tiến, quảng bá du lịch. Với Thái Lan và Singapore thì ta thấy được rằng nếu so sánh về tài nguyên thì Singapore không được thiên nhiên ưu đãi như chúng ta. Họ chỉ là một đất nước có cảng nước sâu và chất xám mà trở nên giàu có – phải chăng có không ít bài học đáng để chúng ta suy nghĩ về hoạt động du lịch của mình?

4.3. Thấy người mà ngẫm đến ta 4.3.1. Một vài ấn tượng. Có lẽ ấn tượng nhất qua chuyến đi du lịch Thái Lan là người Thái đã biến những vùng đất tương tự như miền Tây của VN thành những khu du lịch nổi tiếng thế giới. Người Thái đã cho chúng ta thấy thế nào là “biến không thành có”. Còn chúng ta tự hào về “rừng vàng, biển bạc” thiên nhiên ưu đãi với nhiều kỳ quan được thế giới công nhận, nhưng chúng chưa được khai thác một cách hiệu quả như Thái Lan. Thật khó tưởng tượng nổi tại sao ngành Du lịch là ngành “Công nghiệp không khói” nếu chưa đi du lịch Thái Lan. Chỉ nói về nhà ăn của một điểm du lịch cũng không thể nói hết được và không biết đến bao giờ Việt Nam mới làm 18

được như vậy. Đơn cử như, điểm nào cũng có nhà ăn sạch sẽ, đẹp mắt phục vụ các đoàn khách tham quan liên tục, cả ngàn người ăn một lúc vẫn không hết chỗ, ai vào ăn cũng có cảm giác là người ta chỉ có chờ mình đến để phục vụ. Một ấn tượng nữa là ô tô chở khách du lịch, dù là khách trong nước hay nước ngoài đều dùng cùng một loại cùng một hãng VOLVO (Thụy Điển) chế tạo. Nhiều người đến Pattaya chỉ thấy sự cuốn hút đến kinh ngạc, nhưng không thể hiểu trước năm 1975 hình hài của Pattaya như thế nào? Pattaya trước đây chỉ là một làng chài nhỏ và sau đó là căn cứ quân sự của Mỹ. Sau những năm 1968 thì nó trở nên trung tâm dịch vụ giải trí. Dân số khoảng 200 nghìn người nhưng có tới khoảng 80 nghìn khách du lịch. Mỗi năm, Pattaya đón khoảng 11 triệu khách du lịch, quả là con số đáng nể (Chúng ta đang phấn đấu năm 2007, đạt 4,5 triệu du khách nước ngoài đến Việt Nam). 4.3.2. Nghĩ về du lịch VN. Mục tiêu ngành Du lịch nước ta đặt ra trong năm 2007, là thu hút được 4,2 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng 16%, thu nhập từ du lịch đạt 2,5 tỷ USD. Có một tờ báo điện tử đã mở một diễn đàn về “Du lịch Việt Nam mãi mãi chỉ là tiềm năng?”. Và những người trong và ngoài nước đã nói gì về ngành Du lịch VN? Ông John Kodsowski, Giám đốc điều hành Hiệp hội Du lịch châu á – Thái Bình Dương (PATA) nói: “Du lịch phát triển chững lại, bởi Việt Nam không có hình ảnh thương hiệu rõ ràng. Sản phẩm du lịch, những dịch vụ ăn theo vẫn còn nghèo nàn. Nhiều người nước ngoài đã nói, những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam không có gì mới. So với các nước trong khu vực, ngành Du lịch Việt Nam chưa có những chiến lược, mục tiêu cụ thể để phát triển toàn Ngành; Trong khi Thái Lan có thể dễ dàng đón những đoàn khách lên đến cả ngàn người, thì với các công ty du lịch Việt Nam đón đoàn khách hơn 300 người là cả một vấn đề, vì khó tìm khách sạn, đặt chỗ trên các chuyến bay nội địa, lực lượng phục vụ… Càng khó hơn, khi những năm gần đây, số phòng nghỉ ở các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế gần như không phát triển, trong khi lượng khách quốc tế đến ngày càng tăng. Những dịp như cuối năm, mùa cao điểm, tìm được một lượng phòng lớn ở các khách sạn này không phải là điều dễ dàng, chưa kể giá phòng vào cuối năm cứ nhích dần lên; Nói đến du lịch Việt Nam, thật tình còn nhiều điều để nói. Nói đến du lịch Việt Nam, không chỉ riêng Hà Nội mà tất cả điểm 19

đến ở Việt Nam đều nghèo nàn, về hạ tầng, phương tiện, dịch vụ và các điểm giải trí… Tất cả những ý kiến trên đều không sai, nhưng chưa đủ. Chưa ai nói được đầy đủ nguyên nhân đã làm cho ngành Du lịch nước ta không phát triển như tiềm năng sẵn có. Tất cả đều đổ cho ngành Du lịch là không công bằng. Thử hỏi, các nước xung quanh Việt Nam đang chi rất nhiều tiền cho ngành Du lịch. Cụ thể, ngân sách để quảng bá du lịch ở Thái Lan là 150 triệu USD/năm, ở Malaysia là 120 triệu USD, ở Indonesia là 100 triệu USD/năm trong khi Tổng cục du lịch Việt Nam (VNAT) chỉ được rót khoảng 2 triệu USD/năm. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Xuân nói – ”Bản thân mình là người trong nước đi các nơi mà bị chèo kéo rất là chán! Gần như mình trở thành một miếng mồi…”. Chỉ tiếc là, ông lại không đề cập đến cuộc sống quá khổ của những con người ở những khu du lịch và bộ máy hành chính không biết điều hành… Việt Nam chỉ đón được 3 triệu lượt khách du lịch quốc tế/năm, trong khi đó, Thái Lan 13 triệu. Điều đáng buồn là, hầu hết du khách đến Việt Nam đều “một đi không trở lại”, thậm chí họ còn tuyên truyền đừng đi nữa. Đặc biệt tai nạn giao thông ở Việt Nam ngày càng thảm khốc, kinh hoàng như vụ 2 giáo sư khả kính của thế giới và Việt Nam đều bị tai nạn khi đi bộ ở Hà Nội dẫn đến tử vong. Du lịch Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại, các thủ tục xuất nhập cảnh vẫn chưa thuận lợi, thời gian còn dài; hệ thống biển báo trên đường còn bất cập; các trạm dừng chân, các dịch vụ như tiếp nhiên liệu, khu vệ sinh, giải khát trên đường phục vụ các đoàn xe du lịch cũng còn nhiều bất cập; vấn đề quy định tốc độ xe chạy trên đường quá chậm cũng là điều hạn chế, gây ức chế cho du khách; việc xe chở khách không được vào thành phố trong giờ làm việc cũng làm phiền hà cho khách du lịch. Tình trạng một số doanh nghiệp kinh doanh đón khách mà chưa có giấy phép và vấn đề chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam… cùng còn nhiều việc phải bàn. Có người cho rằng, người Việt có khuynh hướng móc tiền, nhưng không thích cung cấp hay phục vụ, đó là điểm khác biệt với các nước phát triển, họ móc một đồng không đủ phải móc 10 đồng nhưng là móc một cách có khoa học mà khi bị mất tiền rồi người ta vẫn thích. Thái Lan họ có gì? Trong khi đó, chúng ta có được thiên nhiên ưu đãi đủ mọi thứ, từ tài nguyên đến cảnh đẹp. Vậy mà chúng ta chỉ biết l ợi d ụng nó cho mục đích trước mắt mà không biết giữ gìn, tu tạo. Hà nội – Điểm đến của Thiên niên kỉ mới – mà khi đến người ta không biết đến làm gì. Các thắng cảnh thì không được tu tạo thường xuyên, xuống cấp, dịch v ụ đắt đỏ, mua hàng thì bị chặt chém đến việc móc túi, ăn xin cũng đủ l àm du 20

Chính Sách Phát Triển Du Lịch Việt Nam Và Định Hướng Đầu Tư Phát Triển Cơ Sở Lưu Trú Trong Thời Gian Tới

Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cũng như Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam xác định một trong những quan điểm, định hướng chiến lược của Du lịch Việt Nam là “Phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đảm bảo chất lượng, hiện đại, tiện nghi và đồng bộ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”, trong đó phát triển hệ thống cơ sở lưu trú là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước với định hướng phát triển:

– Tập trung đầu tư các cơ sở lưu trú cao cấp, resort nghỉ dưỡng, khách sạn từ 3 – 5 sao tại các khu, điểm, đô thị du lịch trọng điểm; nâng cao tỷ trọng cơ sở lưu trú đạt chuẩn quốc tế, được xếp hạng, đặc biệt là những khu du lịch biển có thương hiệu, đẳng cấp quốc tế và các trung tâm đô thị lớn với vai trò trung chuyển khách và trung tâm thu hút khách du lịch.

– Mở rộng hướng sang phát triển các loại hình cơ sở lưu trú thân thiện môi trường, sử dụng vật liệu xây dựng sinh thái, địa phương, tiết kiệm năng lượng. Các loại hình Bungalow, lều trại và các nhà nghỉ dưỡng được xây dựng gần gũi với thiên nhiên và thích ứng được với biến đổi khí hậu.

– Mở rộng phát triển các loại hình lưu trú mới gắn với du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái như homestay.

– Tăng cường liên kết trong cung cấp dịch vụ lưu trú: liên kết giữa các cơ sở lưu trú và vai trò của Hiệp hội khách sạn; liên kết giữa cơ sở lưu trú với các hãng lữ hành, hình thành các quy tắc ứng xử giữa các nhà cung cấp du lịch với các hãng lữ hành trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch theo mùa vụ…

– Tăng cường phát triển nhân lực để nâng cao chất lượng phục vụ du lịch tại các cơ sở lưu trú du lịch; đẩy mạnh đào tạo và công nhận kỹ năng nghề du lịch theo tiêu chuẩn ASEAN.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong hai năm 2016 – 2017, Tổng cục Du lịch (TCDL) đã thực hiện chiến dịch kiểm tra, rà soát, đánh giá lại chất lượng các CSLTDL tại nhiều địa phương trong cả nước như Quảng Ninh, Lào Cai, Đà Nẵng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, các tỉnh Tây Nguyên… Kết quả đánh giá cho thấy, riêng năm 2016, có tổng số 96 khách sạn từ 3-5 sao mới được công nhận và 141 khách sạn cùng hạng trên được thẩm định và thẩm định lại, số khách sạn khuyến cáo không đạt tiêu chuẩn là 45.

Khu nghỉ dưỡng Novotel 5 sao tại bãi Trường, Phú Quốc – ảnh: Thanh Tùng Định hướng phát triển hệ thống CSLTDL Việt Nam

– Phát triển hệ thống CSLTDL đảm bảo tính bền vững, toàn diện, đồng bộ đáp ứng nhu cầu của mọi thị trường từ phân khúc khách hạng sang đến các phân khúc khách du lịch bình dân và khách có sở thích chuyên biệt.

– Phát triển hệ thống CSLTDL phù hợp, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, điều kiện tự nhiên của Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.

– Đầu tư nâng cao chất lượng, tạo thương hiệu đẳng cấp quốc tế và tính cạnh tranh cao của các cơ sở lưu trú du lịch. Khuyến khích các thương hiệu khách sạn nổi tiếng đầu tư và quản lý khách sạn ở Việt Nam.

– Phát triển các loại hình cơ sở lưu trú trên quan điểm khai thác tối ưu giá trị và nguồn lực sẵn có của cộng đồng, giảm tính mùa vụ, quá tải trong phát triển du lịch và nhu cầu lưu trú của thị trường.

– Phát triển các loại hình cơ sở lưu trú đẳng cấp cao, tổ hợp khách sạn kết hợp nghỉ dưỡng với trung tâm thương mại và tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế để phát triển du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch MICE tại các thành phố lớn.

– Phát triển mạnh các khách sạn, cơ sở lưu trú với các loại dịch vụ đa dạng ở vùng biển, vùng núi, nông thôn gắn với du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái. Lưu ý tới yếu tố thiết kế CSLTDL gần gũi với thiên nhiên, đảm bảo tiêu chuẩn về an ninh, an toàn, vệ sinh để phục vụ khách.

– Phát triển và xây dựng khung pháp lý thuận lợi cho phát triển các loại hình kinh doanh trong mô hình kinh tế chia sẻ như bất động sản du lịch căn hộ khách sạn condotel, homestay và B&B.

– Đầu tư cho công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho CSLTDL phù hợp với các loại hình, chất lượng dịch vụ CSLTDL; kỹ năng nghề du lịch phù hợp với MRATP. Chú trọng tiếp tục đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện các Tiêu chuẩn Nghề Du lịch quốc gia (Bộ LĐTBXH) và TCDL kiện toàn các Hội đồng Đào tạo, công nhận, cấp chứng chỉ tương thích với tiêu chuẩn hội nhập khu vực.

– Đầu tư xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng dịch vụ CSLTDL phù hợp, hội nhập với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực.

– Tiếp tục chương trình, chiến dịch kiểm tra, rà soát, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh CSLTDL. (hết)

TS. Đỗ Thị Thanh Hoa Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch

Bạn đang đọc nội dung bài viết Cơ Sở Lý Luận Về Du Lịch Và Phát Triển Du Lịch Sinh Thái trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!