Đề Xuất 5/2023 # Nét Đặc Trưng Trong Văn Hóa Của Người Dân Đất Nước Lào? # Top 10 Like | Tuvanduhocsing.com

Đề Xuất 5/2023 # Nét Đặc Trưng Trong Văn Hóa Của Người Dân Đất Nước Lào? # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nét Đặc Trưng Trong Văn Hóa Của Người Dân Đất Nước Lào? mới nhất trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lào được nhắc đến với cái tên Triệu Voi hay còn gọi là xứ sở Champa, người anh em của Việt Nam, nới về truyền thống văn hóa và con người thì Việt và Lào có khá nhiều nét tương đồng. Đến với Lào là đến với đất nước của chùa tháp và lễ hội. Đến du lịch Lào du khách không thể bỏ qua những ngôi đền đài, chùa tháp, những hang động kì bí và những thác nước hùng vĩ, còn có những dãy núi cao thấp thoáng sương mù và những cánh rừng dày đặc phong phú với hàng ngàn loại thực vật khác nhau.

Nhân dân Lào có nhiều phong tục tốt đẹp được hình thành trong quá trình lịch sử. Những phong tục tập quán ấy trở thành lệ làng, được các thành viên trong bản mường thừa nhận và tự giác thực hiện. Thành viên nào làm trái lệ làng sẽ bị phạt, hình thức phạt do các già bản và tập thể bản mường quyết định. Nước Lào nằm sâu trong lục địa châu Á nơi giao tiếp giữa hai nên văn minh cổ đại là Ấn Độ và Trung Hoa. Bởi vậy trong quá trình lịch sử, nhân dân Lào còn tiếp thu các trào lưu văn hóa tràn qua các vùng này, ảnh hưởng sâu sắc nhất là phật giáo và văn hóa Ấn Độ.

Nước Lào đất rộng, dân không đông lại gồm nhiều dân tộc, bộ tộc. Tuy cùng sinh sống bằng nghề nông nhưng trình độ sản xuất không đồng đều nên phong tục tập quán ở mỗi miền có sự khác biệt. Vì thế mà phong tục tập quán ở Lào rất đa dạng thể hiện rõ trình độ sản xuất sinh hoạt của mỗi nhóm dân tộc, bộ tộc. Nhưng ở đây chỉ đề cập đến những tập quán chủ yếu có tính phổ biến.

Ẩm thực Lào mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng là Campuchia và Thái Lan: cay, chua và ngọt. Tuy nhiên, ẩm thực lại mang những phong cách đặc trưng rất riêng.

Người Lào ăn gạo là chính; các món ăn có đặc điểm là dùng những gia vị như gừng, me, lá chanh, và nhiều loại ớt khô rất cay. Vị chính trong các món ăn hầu hết các món ăn đều có rất nhiều ớt. Chỉ riêng ớt có hàng chục món: từ ớt chiên giòn, ớt muối chua, ớt sa tế, ớt hầm, ớt luộc … Món ăn tiêu biểu của người Lào là sự pha trộn giữa cay và ngọt, được trung hòa thêm thảo mộc. Mắm cá (pa dek) và mắm Cheo gồm da trâu, ớt nướng, tỏi nướng, riềng nướng, đường cùng nhiều gia vị thảo mộc trộn lẫn hoặc mắm Muok gồm lòng cá trộn ớt, sả, củ hành … hầu như nhà nào cũng có và nước mắm (nám pla) được người Lào sử dụng hết sức phổ biến.

Ẩmthực Lào có những món được xem là đặc sản như : Món Tam Maak Hung còn gọi là nộm đu đủ gồm dưa muối, đu đủ, đậu đũa, cà dĩa giã rồi trộn chung với cùng hàng chục gia vị ăn rất lạ. Ngoài Tam Maak Hung còn có các món như Thoót mú đẹt điêu , tôm dâm cung, cá nướng… Mỗi món đều có các nguyên liệu khác như Lạp được làm bằng thịt heo, băm nhỏ, trộn gia vị Lào, ăn với xôi hoặc cơm, trộn chung với ớt cay, cá nướng được ướp muối ngoài da, khi nuớng chín, da cá không cháy nhưng phủ trắng lớp muối, thịt cá không dính vào da, mùi thơm, chấm với nước “chẻo” (đặc chế từ ớt, tỏi, hành, mắm, muối, bột ngọt và chanh). Món ăn từ côn trùng là loại thức ăn giàu đạm được tìm thấy rất nhiều trên đất nước Campuchia và Thái Lan và Lào. Người Lào cũng rất thích dùng côn trùng để chế biến nhiều món ăn. Từ dế cơm, trứng kiến đến con cà cuống, nhền nhện trong các món chiên, xào, dồi đậu phộng đến hấp cơm hay ngâm giấm đều rất ngon. Đắt nhất vẫn là con cà cuống – một loại côn trùng có ích sống nhiều ở đồng ruộng Campuchia với hương vị thơm cay. Tuy nhiên, món ăn từ côn trùng của Lào lại ít món hơn người Thái Lan và ít phổ biến hơn.

Nhân dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần… người Lào còn hay ca hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi ngược trên các dòng sông.

Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong việc sưu tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm” (ca sĩ), “mỏ khen” (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày càng phát triển trước yêu cầu thưởng thức ca múa của nhân dân ở các bản mường, trong đó có nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu diễn được đông đảo nhân dân ưu ái, mến mộ. “Mỏ lăm” ở Lào có vị trí thật đặc biệt trong xã hội. Họ sống gần gũi nhân dân, đi đến bản làng nào cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Họ am hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội Lào, nắm bắt được tình cảm, ước mơ của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một tri thức, một nghệ sĩ của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng.

Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử… Mỗi loại lại mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương. “Lăm” sử dụng nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ biến trong cả nước.

Múa ở Lào cũng phổ biến rộng rãi, từ thành thị đến nông thôn. Trong những ngày lễ hội lớn nhỏ ở Lào đều tổ chức vui chơi hợp quần trong đó không thể thiếu tiết mục múa. Có điệu múa một người, hai người hoặc tập thể vài chục người (lăm-vông). Những đêm hội, già trẻ, gái trai đều tham gia múa ca một cách tự nhiên thoải mái. Các điệu múa của Lào thường uyển chuyển, nhịp nhàng theo nhịp trống, động tác khá tự do, mang đậm màu sắc dân tộc.

Các điệu múa xuất hiện sớm nhất ở Lào là múa “Bẵng-phay”, “Lăm phen”, rồi đến điệu múa “Xỉ-nuôn”, “Kò-thạt”, Đoọc-bua (hoa sen)… Múa “Bẵng-phay” là điệu múa tập thể trong ngày lễ hội pháo thăng thiên (Bẵng-phay). Múa “Lăm-phen” giống múa tiên ở Ấn Độ, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xia. Múa “Kò-thạt” là múa tập thể xung quanh ngọn tháp trong các ngày lễ hội tôn giáo. Đặc biệt là múa “lăm-vông” (múa vòng tròn) tuy xuất hiện sau nhưng được phổ biến rộng rãi từ Bắc xuống Nam, từ nông thôn đến thành thị và được coi như điệu múa tập thể tiêu biểu của dân tộc. Múa “lăm-vông” xuất hiện vào thời điểm nào của lịch sử, đến nay chưa có lời giải đáp thống nhất của các nhà nghiên cứu văn hóa Lào, nhưng nó đã tồn tại nhiều thập kỷ qua và ngày nay nó vẫn có vai trò thật đặc biệt. Trong các ngày lễ hội, dịp vui chơi tập thể, các buổi liên hoan của một cơ quan, nhà trường, đơn vị vũ trang đều mở đầu và kết thúc bằng “lăm-vông”. Từng đôi nam nữ (có thể cả hai đều là gái hoặc trai) múa vòng tròn theo nhịp trống (nhịp 2/4 hoặc 4/4). “Lăm-vông” dễ múa, động tác sinh động, duyên dáng, uyển chuyển. Có thể “lăm-vông” xuất phát từ điệu múa “lăm-thôn” (múa 1 người).

Múa cung đình có múa đơn, múa đôi hoặc tập thể. Các vũ nữ múa cung đình được tuyển chọn kỹ và tập luyện khá công phu do một số nghệ sĩ được đào tạo ở nước ngoài (thường ở Ấn Độ hoặc Khơ-me) hướng dẫn. Khi biểu diễn các vũ nữ được ăn mặc hết sức lộng lẫy, sang trọng. Múa cung đình ít di chuyển, mà thường múa tại chỗ, kết hợp biểu diễn nhiều động tác mềm mại, dịu dàng, uốn lượn của ngón tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, đầu, bàn chân cho đến ánh mắt, nụ cười, nét mặt theo tiếng đàn “la-nát”. Múa cung đình là dịp mua vui cho nhà vua, hoàng tộc và số quan chức gần gũi nhà vua. Một số điệu múa cung đình Lào được mô phỏng theo các điệu múa cổ Ấn Độ, Khơ-me và xoay quanh đề tài đề cao, chúc tụng, sùng bái nhà vua.

Về nhạc cụ người dân Lào thường dùng các loại sau:

– Khèn bè (khen): Là loại nhạc cụ phổ biến nhất ở các bản làng từ Bắc xuống Nam. Khèn bè dễ làm, dùng nguyên liệu ngay trong rừng, dưới sự hướng dẫn của “mỏ-khèn”, các tràng trai trong bản có thể tự làm được. Nhưng để có chiếc khèn bè âm thanh chuẩn phải tìm mua ở các chợ phiên, do các nghệ nhân chuyên sản xuất bày bán. Từ lúc còn tuổi thiếu niên con trai Lào đã học thổi khèn.

– Trống (kong): Trống cũng là nhạc cụ phổ biến ở Lào. Có thể nói rằng không có bản làng nào ở Lào không có trống và không ngày nào vắng tiếng trống, tiếng mõ ngân vang (bản có chùa). Có nhiều loại trống như trống cái, trống cơm, trống con…

Trống cơm (koong-tũm): Trống cơm được đánh cùng với một số nhạc cụ khác để múa tập thể trong ngày lễ hội “bẵng-phay” (pháo thăng thiên). Trống con (Koong kình) được đánh trong các buổi lễ cầu phúc.

Ngoài ra còn nhiều loại nhạc cụ khác được dùng phổ biến trong các ngày lễ hội sản xuất, tôn giáo, ma chay như: “khoọng” (chiêng), “xình” (rạo bạt), “pì” (sáo), “khùi” (tiêu), “mạc chặp pì” (đàn), “xo” (nhị), “pôông” (mõ), “xèng” (thanh la)…

Từ lâu trong mỗi bản mường, nhân dân có khả năng tự túc được các loại chăn, vải. Khi chưa có thuốc nhuộm, người Lào dùng các loại quả rừng, củ rừng. Các cô gái thích mặc vải hoa, vải kẻ có màu đậm, tươi tắn như màu cỏ cây hoa lá tự nhiên trong rừng núi bao la trùng điệp của quê hương mình. Kiểu áo quần, màu sắc cũng được chú ý sao cho tiện lợi, phù hợp với từng mùa, từng hoàn cảnh cụ thể khi đi lao động sản xuất, dự lễ hội, cưới xin, ma chay…

Lúc còn nhỏ, phụ nữ Lào để tóc hoặc hớt tóc. Trên mười tuổi thường búi tóc, một số địa phương như ở Luổng-pha-bang có tục búi tóc lệch hoặc thẳng để phân biệt giữa các cô gái có chồng và chưa có chồng. Ngoài năm mươi tuổi, phụ nữ Lào thường hay cắt tóc ngắn với quan niệm đã về già cần ăn mặc giản dị, gọn gàng, làm gương cho con cháu. Xưa kia cũng như ngày nay phụ nữ Lào thường mặc váy. Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào mặc váy có cạp, có gấu, không quá ngắn hoặc quá dài. Ai không mặc như trên hoặc dùng vải quá mỏng, quần chẽn bó lấy thân bị coi là không đứng đắn, trái với cách ăn mặc truyền thống của phụ nữa Lào. Các em bé gái dưới mười tuổi có thể châm chước trong cách ăn mặc nhưng vẫn kỵ mặc đảo ngược gấu váy lên trên. Đi lao động ngoài ruộng rẫy như gặt hái, làm cỏ, hái lượm trong rừng, phụ nữ mặc áo tay dài nhuộm màu chàm hoặc đen. Người lớn tuổi hay quấn trên đầu chiếc khăn rằn (phạ-phe). Đi dự lễ hội, phụ nữ Lào ăn mặc theo truyền thống dân tộc. Đó là váy toàn tơ, chân váy có những đường hoa văn mang màu sắc dân tộc, chiếc áo tay ngắn được may cầu kỳ hơn, có những đường viền hoặc thêu hình hoa lá, chim muông. Có cô gái mặc áo đính bằng khuy đồng hay khuy bạc, quàng chéo trước ngực chiếc khăn “phạ-biềng” màu. Bó sát lưng làm nổi thân hình thon thả của các cô gái là chiếc dây thắt lưng bằng đồng hay bạc gọi là “khểm-khắt”. Đi dự các ngày lễ hội các cô gái Lào thích đeo đồ trang sức như hoa tai, dây chuyền, nhẫn bằng vàng hay bạc. Nhưng phổ biến nhất là đôi bông tai và chiếc thắt lưng, đó là những vậy kỷ niệm của người con gái được cha mẹ sắm cho từ thưở nhỏ.

Nếu bạn đang có kế hoạch đi để hòa mình vào văn hóa, ẩm thực & con người nơi đây hãy cũngtrải nghiệm chùm tourdo công ty tổ chức.

Những Nét Văn Hóa Đặc Biệt Của Đất Nước Singapore

với sự giao thoa của nhiều nền văn hóa khác nhau. Là một quốc gia đa sắc tộc với nhiều dân tộc cùng hòa hợp, sống chung như người Hoa, Ấn, Mã Lai, Peranakan, người Á Âu,… Nhưng văn hóa Singapore cũng có một số đặc trưng sau.

1.Ngôn ngữ:

Hầu hết người dân Singapore đều biết nói 2 thứ tiếng trở lên. Tiếng Malay được chọn làm Quốc ngữ, nhưng tiếng anh vẫn thông dụng nhất vì được sử dụng trong văn hóa giao tiếp hằng ngày, trong trường học, chính phủ, buôn bán,…

2.Tôn giáo:

với nhiều tôn giáo khác nhau. Số lượng người theo phật giáo chiếm số lượng lớn với 33%. Tiếp theo là Ki-tô giáo, sau đó là Hồi giáo, Đạo giáo, và Ấn Độ giáo. 17% không tham gia tôn giáo nào.

3.Tính cách:

Người Singapore nổi tiếng bởi sự sạch sẽ, nếu bạn chỉ bỏ một mẫu rác nhỏ trên đường phố mà không bỏ vào thùng rác công cộng, nếu bị bắt gặp sẽ bị nhà chức trách phạt tù hoặc phạt tiền rất nghiêm khắc.

Hành động chỉ thẳng vào người khác sẽ bị xem là vô lễ, bạn nên tránh làm việc này.

Người Việt hay có thói quen đặt đũa lên chén, đĩa trước và sau khi ăn cơm. Bạn không nên làm việc này, vì người Singapore cho rằng hành động này chỉ dành cho người đã khuất.

Singapore là một Quốc đảo, nên người dân Singapore cũng có nhiều phong tục để tránh gặp xui xẻo khi đi biển. Như việc khi ăn cá, sau khi ăn hết mặt này không được lật qua phần kia để ăn mà phải tách phần xương rồi mới tiếp tục ăn phần còn lại, làm theo điều này người dân Singapore tin tưởng sẽ không bị lật thuyền khi đi biển.

Người Singapore thường có niềm tin cố hữu về những người cùng dân tộc.

Thích làm việc theo nhóm để đạt được hiệu quả cao hơn là tự mình làm việc một mình.

Tuổi tác tại Singapore cũng được mọi người rất coi trọng, khi tham gia một lễ, tiệc, nếu là một trong những thành viên của gia đình người chủ thì người được MC giới thiệu đầu tiên sẽ là người lớn tuổi nhất.

Bạn cũng nên cố gắng trả lời những câu hỏi riêng tư như về thu nhập, hôn nhân khi người Singapore hỏi bạn, vì nếu không trả lời, có thể mối quan hệ của bạn và người này có thể bị xấu đi.

Danh thiếp cũng được xem là một phần quan trọng khi bạn giới thiệu mình với một người dân Singapore, bạn nên dùng 2 tay khi trao danh thiếp, đây được xem là phép lịch sự tối thiểu khi bạn muốn giới thiệu, làm ăn với người Singapore.

Không nên tặng cho người Singapore một số đồ dung như khăn tay, chiếc dù hoặc đồng hồ vì những vật này được xem là xui xẻo cho người nhận quà.

Nếu có cơ hội đi du lịch Singapore bạn nên đọc kỹ những thông tin này để có những hiểu biết nhất định về văn hóa người Singapore, sẽ rất hữu ích để bạn có những ứng xử phù hợp nơi công cộng hoặc khi bạn muốn làm quen với một người bạn Singapore đấy.

Những Nét Đặc Trưng Văn Hóa Thái Lan

Đạo Phật được tôn sùng ở Thái Lan

Thái Lan được xem là đất nước của Phật giáo, ở xứ sở này Phật giáo là Quốc giáo, với khoảng 90% dân số là người theo đạo Phật. Vì thế, vai trò của phật giáo trong nền văn hóa, tín ngưỡng của người dân Thái Lan là vô cùng quan trọng, ngay cả trong hiến pháp vai trò của phật giáo cũng được biểu dương. Nhà nước và dân Thái vô cùng coi trọng và tạo điều kiện hết sức có thể để Phật giáo phát triển, trong đó bao gồm việc phát triển những viện phật học, tăng đoàn phật giáo, trường đại học phật giáo… Một điểm cần lưu ý là các thầy tu tại Thái Lan luôn né tránh những người phụ nữ, tránh đụng vào họ và không nhận trực tiếp bất cứ thứ gì từ tay phụ nữ. Vì vậy,khi du lịch Thái Lan, các du khách nữ nên tôn trọng các thầy tu, chú ý tránh tiếp xúc gần hay chạm vào các thầy tu khi dâng đồ cúng…

Sự tôn trọng hoàng gia Thái Lan là đất nước quân chủ lập hiến đứng đầu nhà nước là vua do đó trong văn hóa Thái Lan sự thiếu tôn trọng hoàng gia là phạm luật. Bất cứ hành động hay những nhận xét tiêu cực nào hướng về Vua hoặc thành viên của hoàng tộc đều là sai trái, không tốt. Chính vì vậy mà bạn cần cẩn thận với từng lời nói và hành động của mình. Nếu chẳng may đánh rơi một đồng xu hay một tờ tiền giấy thì tuyệt đối không nên dẫm lên nó để nhặt lại, người Thái coi đó là một hành động vô lễ vì đã dẫm lên bức ảnh của nhà Vua.

Múa Thái tượng trưng cho sự mến khách Múa Thái là điệu múa cổ truyền đặc trưng ở Thái Lan, có đến 3 loại và thường được trình diễn, biểu diễn trong những dịp lễ hội khác nhau. Những vũ công xinh đẹp, sẽ biểu diễn những điệu múa dịu dàng, đằm thắm cùng trang phục và trang sức truyền thống là một yếu tố không thể thiếu để làm nên vẻ đẹp của những điệu múa. Không chỉ có giá trị nghệ thuật cao, múa Thái còn tượng trưng cho tấm lòng thật thà, mến khách của người dân xứ chùa Vàng.

Chào Wai – Nét văn hóa đặc trưng tạo sự thân thiện Chào Wai, là hành động chắp tay trước ngực như đang cầu nguyện và gập nhẹ người, cùng với một nụ cười ấm áp. Đó chính là một cử chỉ của sự tôn trọng lòng mến khách của người dân Thái. Không đơn giản chỉ là một lời chào, Wai còn có những quy định riêng cần nhớ như người có địa vị thấp hơn sẽ phải chào người có địa vị cao hơn trước. Người dân Thái vẫn rất lịch sự với du khách nước ngoài và có thể bỏ qua nếu họ không hiểu về tập tục này.

Khám Phá 6 Nét Đẹp Văn Hóa Huế Đặc Trưng

Ai đã từng đến Huế một lần đều thương nhớ khôn nguôi mảnh đất cố đô này. Khám phá 6 nét đẹp văn hóa Huế đặc trưng với con người, lễ hội, kiến trúc, ẩm thực Huế truyền thống.

Huế là kinh đô cũ của nước Việt Nam thời phong kiến dưới triều nhà Nguyễn. Trải qua hơn 7 thế kỉ hình thành và phát triển, từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và cuối cùng là Huế ngày nay, cố đô vẫn giữ trong mình nét đẹp trầm mặc, cổ kính mà du khách không thể tìm thấy được ở bất cứ nơi nào trên dải đất hình chữ S. Được hình thành trên nền đất văn hóa Sa Huỳnh, Huế đã tích hợp được những giá trị vật chất và tinh thần quý báu tạo nên một bản sắc rất riêng cho mảnh đất Huế “thương” này.

Văn hóa Huế đặc sắc trong cách thể hiện, phong phú về nội dung thể hiện sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ kiến trúc, văn học, âm nhạc, mỹ thuật, phong tục tập quán, phong cách sống, phong cách giao tiếp,…

Con người Huế

Bạn đã từng tiếp xúc với người Huế thì sẽ không thể quên giọng nói ngọt ngào, nhẹ nhàng, dễ thương của họ. Mặc cho ở bất kì đâu nhưng chỉ cần nghe tiếng “dạ”, “thưa” mềm mại thì ai cũng có thể nhận ra đấy là giọng Huế đặc trưng. Người Huế thân thiện, nhiệt tình và vô cùng hiếu khách. Đặc biệt là ở người con gái Huế, bạn sẽ không thể nào không yêu quý họ bởi sự thanh tao, nhẹ nhàng trong cử chỉ, duyên dáng trong cách cư xử và giọng nói dễ thương trong tà áo dài sắc tím mộng mơ bên chiếc nón bài thơ. Văn hóa Huế đặc trưng chính bởi vẻ đẹp trong con người Huế dù bạn có tiếp xúc một lần nhưng mỗi lần nhớ đến cũng khiến bạn không khỏi yêu mến.

Khi đến du lịch Huế, bạn sẽ như ngược dòng thời gian trở về nước Việt xưa những năm thế kỉ 17, 18 với nhiều loại hình kiến trúc đền đài, thành quách, lăng tẩm. Kiến trúc Huế rất đa dạng, phong phú với kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu đan xen cùng kiến trúc truyền thống và hiện đại. Trong đó công trình kiến trúc nổi bật nhất ở Huế chính là kinh thành Huế. Mỗi công trình kiến trúc đều là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, đặc sắc thể hiện một phần yếu tố triết lý cũng như tâm lý. Hơn nữa, kiến trúc Huế còn nổi tiếng bởi những công trình kiến trúc cổ mang đậm tính chất phong thủy. Bình phong và hòn non bộ được xem là những tiểu cảnh không thể thiếu trong các kiến trúc truyển thống Huế.

Văn hóa nghệ thuật Huế

Nghệ thuật tuồng ở Huế

Nghệ thuật tuồng phát triển sớm từ thế kỉ 17 dưới thời chúa Nguyễn. Đến triều Nguyễn, tuồng trở thành quốc kịch và rất được xem trọng. Triều đình nhà Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho nghệ thuật tuồng phát triển. Ngày nay khi đến du lịch Huế, bạn có cơ hội đi thăm Đại Nội Huế sẽ được tham quan nhà hát Duyệt Thị Đường, Tĩnh Quang Viện, Thông Minh Đường. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua đã cho xây dựng Thanh Bình Thự làm nơi dạy tuồng cho diễn viên. Vua Tự Đức thì thành lập Ban Hiệu Thư chuyên chỉnh lí, hiệu đính và sáng tác tuồng. Các vở tuồng cung đình vẫn còn được lưu truyền, thường xuyên biểu diễn ngày nay có thể kể đến như: Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Tam nữ đồ Vương, Hồ thạch phủ, Lý Phụng Đình, Giác oan,…

Một bản ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt. Khi biển diễn ca Huế sẽ kết hợp với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trông Huế, sanh loan và sanh tiền tạo nên những khúc nhạc sâu lắng chạm vào tâm hồn người nghe.

Ngày nay, tham gia tour du lịch Huế ngồi trên thuyền rồng lênh đênh trên dòng Hương giang, lắng nghe những lời ca trữ tình của ca Huế sẽ là một trải nghiệm văn hóa Huế đặc sắc mà du khách không nên bỏ qua.

Nhã nhạc cung đình Huế

Nhã nhạc cung đình Huế là thuật ngữ dùng để chỉ loại nhạc chính thống dùng trong cung đình phong kiến thời xưa mỗi dịp lễ tế và triều hội, là sản phẩm kết hợp giữa lễ và nhạc. Nhã nhạc cung đình bắt nguồn từ thời Lê nhưng phải đến thời Nguyễn, nhã nhạc phát triển một cách có hệ thống và bài bản. Nhã nhạc cung đình Huế đã được tổ chức Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2003.

Vũ khúc cung đình là sản phẩm mang tính kế thừa của chế độ phong kiến hàng nghìn năm và được kết tinh dưới thời nhà Nguyễn. Có hơn 15 vở múa lớn từ múa lễ, múa yến tiệc, múa trình diễn tích tuồng. Các vở diễn thường được tổ chức quy mô hoành tráng, số lượng người tham gia đông thể hiện vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và phô diễn kĩ thuật múa tinh xảo được kết tinh qua hàng nghìn năm của người Việt.

Đến du lịch Huế, bạn sẽ được trải nghiệm hai loại lễ hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình thường chú trọng vào phần lễ hơn phần hội, phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều đình. Lễ hội dân gian gồm nhiều lễ hội phong phú như: lễ hội Huệ Nam ở Hòn Chén theo tín ngưỡng người Chăm Pa, lễ hội tưởng nhớ những vị thánh thành lập làng, lễ hội tưởng nhớ những tổ nghề của các làng nghề truyền thống. Trong dịp lễ tết ở các lễ hội dân gian, các hoạt động văn hóa dân gian diễn ra sôi nổi như kéo co, đấu vật, đua thuyền,… thu hút sự quan tâm của du khách.

Mỹ thuật Huế

Mỹ thuật Huế được chia làm hai dòng: mĩ thuật cung đình (cung thành, lăng tẩm…) và mĩ thuật dân gian (chùa, đình, nhà ở của người dân…). Mỹ thuật Huế là sự giao thoa của nền văn hóa Chăm và nghệ thuật trang trí Tây Phương. Trang trí cung đình Huế còn tiếp thu và nâng cao mĩ thuật dân gian Việt Nam. Mỹ thuật Huế đặc sắc trong các tác phẩm chạm khắc trên nhiều chất liệu như gỗ, xà cừ, vàng bạc, khảm sành sứ, ngọc ngà,… Ngoài ra Huế còn là quê hương của nhiều họa sĩ tranh sơn dầu, kể như họa sĩ tranh sơn dầu đầu tiên của Việt Nam Lê Văn Miên.

Nói đến ẩm thực xứ Huế, bạn sẽ không khỏi cảm thán bởi sự cầu kì trong cách chế biến, bài trí của họ. Chỉ đi một vòng tour Huế thưởng thức hết các món ngon đặc sản Huế nổi tiếng từ bún bò, cơm hến, bún hến đến các loại bánh đặc sản xứ Huế, chè Huế, bạn sẽ cảm thấy thời gian không bao giờ là đủ để cảm nhận hết những món ăn này.

Các món ăn dân gian được nấu theo lối Huế vẫn được người Huế lưu giữ hơn 1000 món ăn khác nhau. Người Huế nấu ăn chú trọng vào chất hơn lượng với nghệ thuật trình bày đẹp mắt, nghệ thuật tinh tế. Nếu có cơ hội hãy một lần chiêm ngưỡng bàn ngự thiện của nhà vua nhà Nguyễn, bạn sẽ không khỏi cảm giác thán phục những món ăn cao lương mĩ vị, được bố trí công phu, tỉ mỉ, nấu nướng cầu kì.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nét Đặc Trưng Trong Văn Hóa Của Người Dân Đất Nước Lào? trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!