Top 9 # Xem Nhiều Nhất Du Lịch Di Sản Việt Nam Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Tuvanduhocsing.com

Di Sản Thế Giới Tại Việt Nam

Di sản thế giới tại Việt Nam 1 Hoàng Thành Thăng Long, ảnh Hoàng Thành Thăng Long xưa và nay  nguồn BQLDT Hà Nội, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAMHoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim Học tiếng Trung Việt, thu thập tổng hợp biên soạn

Di sản thế giới là danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long,  cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.

Hoàng Thành Thăng Long di sản thế giới tại Việt Nam di tích Đoan Môn.  Ngày 10 tháng 12 năm 1427 nhằm ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi tại Đoan Môn Hoàng Thành Thăng Long thủ đô Hà Nội ngày nay, Hội thề Đông Quan được tổ chức giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông,  Đại Việt giành lại độc lập hoàn thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vua Minh sai La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, bãi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Vương Thông trở về Bắc, trả lại đất cho An Nam, cho sứ thần đi lại, việc triều cống thực hiện theo lệ cũ năm Hồng Vũ.  Quân Minh tổng cộng 10 vạn người đã được hồi hương an toàn. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết theo ý chỉ của Lê Lợi đã khẳng định: Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay…

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.

Di sản thế giới tại Việt Nam 2 Cố đô Huế, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Cố đô Huế, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

2. CỐ ĐÔ HUẾ

Quần thể di tích cố đô Huế được  tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 03/7/1993 tại hội nghị tổ chức ở Colombia. Đây là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được vinh danh là Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích cố đô Huế được phân bố dọc theo tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, thuộc thành phố Huế và một vài vùng ngoại ô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là kinh đô của Việt Nam thời  Phong kiến – Triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1945.  Trải qua 143 năm dưới sự trị vì của 13 đời vua, kinh đô Huế đã hình thành một hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn ở Việt Nam thời bấy giờ. Đó là một hệ thống thành quách mẫu mực, những công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc phương Đông vừa có sự giao thoa với nghệ thuật kiến trúc phương Tây. Tất cả được sắp đặt ở những vị thế đặc biệt lồng trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng toát  lên một vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm nhưng vẫn rất trữ tình. Một vẻ  đẹp độc đáo của kinh đô “rất Việt Nam” với những công trình tiêu biểu như: Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn và các ngôi điện Thái Hòa, Cần Chánh, Kiến Trung,..Ngoài ra còn có 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua, Đàn Nam Giao, Hổ quyền, cùng nhiều kiến trúc đình, điện, chùa phật giáo cổ kính và nhiều địa danh thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng như chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, Lăng Cô, núi Ngự, sông Hương,…đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp rất đặc trưng của cố đô Huế.

Di sản thế giới tại Việt Nam 3 Vịnh Hạ Long, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Vịnh Hạ Long, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

3. VỊNH HẠ LONG

Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long  Việt Nam được tổ chức UNESCO 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên Thế giới. Lần 1 vào ngày 17/12/1994, lần 2 vào ngày 02/12/2000 với giá trị ngoại hạng về thẩm mỹ và giá trị địa chất, địa mạo. Vịnh Hạ Long là một phần của Vịnh Bắc bộ, nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Vịnh có diện tích 1.553 km2 với 1969 đảo lớn, nhỏ. Trong đó vùng di sản được công nhận bao gồm 775 hòn đảo có diện tích là 434km2. Đây là di sản độc đáo được đánh gía độc nhất vô nhị trên thế giới. Nó không những chứa đựng nhiều dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ mà còn là một tuyệt tác nghệ thuật của thiên nhiên với hàng trăm, nghìn đảo đá “muôn hình vạn trạng”, cùng nhiều hang động kỳ bí tuyệt đẹp có tuổi kiến tạo địa chất cách đây từ 250-28 triệu năm. Vịnh Hạ Long không những là kỳ quan thiên nhiên của thế giới mà còn là một bảo tàng địa chất quý giá được gìn giữ ngoài trời đến 300 triệu năm. Bên cạnh đó Vịnh còn là nơi tập trung đa dạng sinh học với các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới rất phong phú, đa dạng trong đó có nhiều loài động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Vịnh Hạ Long còn là vùng đất được coi là cái nôi của loài người với nền văn hóa Hạ Long qua những di chỉ khảo cổ nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Thoi Giếng cùng nhiều địa danh gắn với lịch sử đấu tranh oanh liệt, hào hùng của dân tộc như thương cảng Ba Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng.

Di sản thế giới tại Việt Nam 4 Vườn Quốc Gia Phong Nha Kẻ Bàng, Động Phong Nha Quảng Bình, ảnh tư liệu nguồn BQLDT VQGPNKB, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

4. VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA KẺ BÀNG

Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm trên địa bàn các huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, Minh Hóa của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 343.300 ha. Nơi đây được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ bởi cấu trúc địa hình, địa mạo rất phức tạp trải qua quá trình kiến tạo địa chất từ 4 triệu năm trước của trái đất với những cảnh quan thiên nhiên kỳ bí cùng hơn 300 hang động lớn nhỏ đẹp nổi tiếng như Phong Nha, Tiên Sơn, Thiên Đường. Đặc biệt là hang Sơn Đoòng được đánh giá là hang động lớn và dài nhất thể giới (hang cao 250m, rộng 200m, dài 8,5km). Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi có hệ động thực vật phong phú, đa dạng và độc đáo với 2400 loài thực vật bậc cao, 140 loài thú, 356 loài chim và hàng trăm loài lưỡng thể cá côn trùng trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và IUCN của thế giới như: sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, Voọc Hà Tĩnh … Có thể nói, Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng vừa là một bảo tàng địa chất và cũng là một bảo tàng sinh học khổng lồ ở Việt Nam. Nó có nhiều giá trị to lớn không những đối với Việt Nam mà còn mang ý nghĩa toàn cầu. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng từng được UNESCO công nhận 2 lần là  Di sản thiên nhiên Thế giới (Lần 1 vào ngày 3/7/2003 tại Hội nghị Pari – Pháp; lần 2 vào tháng 7/2015 tại Hội nghị họp tại Bon- Đức).

Di sản thế giới tại Việt Nam 5 Quần thể danh thắng Tràng An, ảnh HK (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

5. QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN

Quần thể danh thắng Tràng An Bái Đính là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận vào ngày 23/6/2014 dựa trên 3 tiêu chí về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị địa chất, địa mạo. thuộc địa bàn các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan và Thành phố Ninh Bình, với tổng diện tích khoảng 10.000 ha trong đó vùng lõi của di sản gồm: khu sinh thái Tràng An, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, ở đây có khoảng 100 hang động vừa là động khô, vừa là động nước. Các hang động xuyên thủy thông giữa các thung được thiên nhiên tạo tác muôn hình muôn vẻ, xung quanh được bao bọc bởi những ngọn núi đá vôi dựng đứng với những hình thù ký thú. Mỗi địa danh hang động nơi đây đều mang ý nghĩa gắn với những câu chuyện, sự kiện lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông từ triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Xen lẫn giữa các tuyệt tác thiên nhiên còn có cả những công trình kiến trúc cổ kính do bàn tay con người tạo nên, chúng hòa quyện với nhau trong một không gian huyền ảo, thơ mộng tạo nên vẻ đẹp linh thiêng, huyền bí cho Tràng An. Với sự đa dạng về địa chất địa mạo, về hệ thống cảnh quan hang động được kiến tạo trong thời gian kéo dài hàng triệu năm, Tràng An cũng là khu vực có hệ sinh thái phong phú, đa dạng, vừa trên cạn, vừa dưới nước. ở đây có hàng trăm đến hàng nghìn loài động thực vật khách nhau tropng đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Không những chỉ có môi trường thiên nhiên đa dạng, cảnh quan kỳ bí, thơ mộng, Tràng An còn mang trong mình nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá với những di tích lịch sử thời nguyên thủy đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Tràng An đã từng là nơi cu trú của người tiền sử, là mảnh đất vua Đinh chọn xây dựng kinh đô đầu tiên của nhà nước Việt Nam phong kiến độc lập: Đại Cồ Việt. Nơi đây cũng từng là thủ đô kháng chiến của vua tôi nhà Trần trong 2 lần chống quân Nguyên xâm lược.  Qua đó có thể nói thật hiếm thấy một di sản văn hóa nào hội đủ các giá trị lịch sử, khoa học, thẩm mỹ, sinh thái và môi truờng như Quần thể danh thắng Tràng An của Việt Nam. 

Di sản thế giới tại Việt Nam 6 Thánh địa Mỹ Sơn, ảnh VietHa (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

6. THÁNH ĐỊA MỸ SƠN

Khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 01-12-1999.  Khu đền tháp Mỹ Sơn được phân bố tập trung trong một thung lũng được bao bọc xung quanh là đồi núi có đường kính khoảng 2km, từ Đông Trường Sơn đến kinh đô Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đây chính là khu thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chăm Pa được xây dựng và tồn tại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Đền tháp ở Mỹ Sơn được xây theo từng cụm. Mỗi cụm thường có một đền thờ chính và bao quanh có nhiều tháp nhỏ hoặc một số công trình phụ. Đền tháp được xây bằng gạch, có ghép những mảng trang trí bằng sa thạch. Với kỹ thuật xây tường rất độc đáo (kỹ thuật mài chập xếp khít). Sau khi xây xong tường mới điêu khắc chạm trổ hình hoa lá, người, thú linh lên tháp. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì Mỹ Sơn là nơi nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa hội tụ một cách đầy đủ nhất. Các phong cách được phát triển liên tục mà chủ yếu nhất là từ thế kỷ VII – XIII. Mỹ Sơn tập trung đến 70 đền tháp, 32 bia ký tồn tại ở nhiều dạng khác nhau.  Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của mưa nắng, thời gian chúng không còn được hoàn toàn nguyên vẹn nhưng đây vẫn là những cứ liệu tốt và rất quan trọng để nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật Chăm. Đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc Chăm, một nền nghệ thuật độc đáo chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo có vẻ đẹp mang đậm nét văn hóa dân tộc hấp dẫn đến lạ kỳ.

Di sản thế giới tại Việt Nam 7 Phố cổ Hội An, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Hội An, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

7. PHỐ CỔ HỘI AN

Đô thị cổ Hội An được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là Di sản văn hóa thế giới ngày 04-12-1999 tại Hội nghị thứ 23 tổ chức ở Maroc. Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nằng 30km về phía Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Đây là một cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì “các kiến trúc cổ của đô thị cổ Hội An hầu hết được làm mới từ thế kỷ XIX mặc dù năm khởi dựng xưa hơn nhiều”. Ở đây còn lưu giữ và bảo tồn gần như nguyên vẹn được trên 1000 di tích kiến trúc cổ bao gồm: các khu phố, nhà cửa, các hội quán, nhà thờ họ tộc, đình chùa, miếu mạo, giếng cổ,… Các kiến trúc cổ ở đây hầu hết được xây bằng vật liệu truyền thống như gạch, gỗ, phong cách kiến trúc vừa mang yếu tố nghệ thuật Việt Nam vừa có sự tiếp thu tinh hoa kiến trúc của các nước phương Đông( như Nhật Bản, Trung Hoa) và phương Tây. Điều đặc biệt của Hội An là mặc dù đã trải qua bao thế kỷ nhưng những phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng lễ hội, những món ăn truyền thống, nghề thủ công truyền thống vẫn được người dân gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Hội An từng là một thương cảng, nơi có điều kiện giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau nên người Hội An ngoài những giá trị văn hóa truyền thống đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa các dân tộc khác hình thành nên một bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng rất riêng và độc đáo. Người Hội An hồn hậu, dễ gần và rất mến khách. Đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách khi tới khám phá khu đô thị cổ Hội An.

Di sản thế giới tại Việt Nam 8: Thành nhà Hồ, cổng Nam ảnh Geoff Steven, nguồn BQLDT, Bảo tàng Thanh Hóa (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

8. THÀNH NHÀ HỒ

Thành nhà Hồ được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 27-06-2011 tại hội nghị lần thứ 35 tổ chức tại Paris (Pháp). Phạm vi phân bố của Thành nhà Hồ gồm các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc thuộc huyện Vĩnh lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành nhà Hồ là kinh đô của Việt Nam giai đoạn từ 1398 đến 1407. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397. Trong lịch sử Thành còn có nhiều tên gọi khác như: Thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Khu di tích Thành nhà Hồ bao gồm: khu Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao. Trong đó Thành nội được xây dựng hình vuông, tất cả phần tường thành và 4 cổng chính được xây dựng bằng đá phiến xanh với kỹ thuật xây dựng và điêu khắc rất tinh xảo. Hào thành được đào đắp bao quanh khu Thành nội có 4 cửa đá bắc vào 4 cửa của Thành nội. La thành của Thành nhà Hồ dài khoảng 10km là vòng thành ngoài được xây dựng để che chắn, bảo vệ cho thành nội được dựa theo địa hình sông núi tự nhiên và chủ yếu là đắp bằng đất, tường tre gai bao vệ. Đàn tế Nam Giao được xây dựng năm 1402, đây là một kiến trúc cung đình quan trọng – nơi các vua tế lễ tạ ơn trời đất, cầu quốc thái dân an. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng 43.000m2, có 5 nền đất với 5 bậc cấp. Từ nền Đàn cao nhất đến nền thấp nhất có độ chênh lệch nhau tới 7,80m. Thành nhà Hồ được đánh giá là “một công trình kỳ vĩ bởi  kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”.

9. CAO NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN

Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn là công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á được Hội đồng tư vấn mạng lưới công viên địa chất toàn cầu  (GGN) công nhận là công viên địa chất toàn cầu ngày 3/ 10/ 2010,  nằm ở độ cao trung bình từ 1000-1600m so với mực nước biển, có diện tích gần 2356km2 thuộc địa bàn 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quảng Bạ của tỉnh Hà Giang, Cao nguyên đá Đồng Văn mang trong mình nhiều di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc phong phú, đa dạng: điển hình như các vườn đá, rừng đá Khâu Vai, Lũng Pù (Mèo Vạc). Cao nguyên đá Đồng Văn được đánh giá là một trong những vùng có hệ địa sinh thái núi đá đẹp, độc đáo và đa dạng nhất trên thế giới. Đặc biệt nơi đây còn phát hiện được 4 di chỉ khảo cổ thời tiền sử thuộc thời kỳ đồ đá cách đây hàng vạn năm. Đây cũng là nơi sinh sống lâu đời cử 17 dân tộc thiểu số vùng cao Bắc Việt Nam có nhiều nét văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền.

10. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương  ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 6/12/2012. Phạm  vi công nhận của di sản này được xác định gồm: 109 làng có đình, đền thờ vua Hùng thuộc địa phận Tp.Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phú Ninh, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba, Thanh Thủy, Yên Lộc của tỉnh Phú Thọ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được khởi nguồn từ thời đại các vua Hùng sau đó đã được phát triển mạnh và rất được chú trọng ở các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, đặc biệt thời Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn đã liên tục sắc phong cho các đền thờ tại Phú Thọ, pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, cấp ruộng đất để thu hoa lợi phục vụ cho việc thờ cúng, coi sóc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “bọc trăm trứng”, cả dân tộc cùng chung giống nòi, nguồn cội. đồng thời thể hiện đạo lý “uống nuớc nhớ nguồn”, sự gắn kết cộng đồngcũng như tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Hàng năm lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức ở các đền thờ vua Hùng trên khắp cả nước trong đó nghi lễ lớn nhất diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng tại Phú Thọ. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt, bát dê, Kéo co, bắt vịt, bắt chạch thi bơi… Ngày nay Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác bảo tồn các di sản văn hóa đặc biệt là tín ngưỡng thờ Quốc tổ Hùng vương và đã đưa vào Quốc lễ. hằng năm cứ vào ngày 10/3 âm lịch nhân dân cả nước đều được nghỉ lễ để tham gia các hoạt động giỗ tổ được tổ chức trọng thể tại các đình, đền thờ vua Hùng ở các địa phương và nô nức hành hương về đất tổ Phú Thọ để tham dự nghi lễ tại khu di tích lịch sử đền Hùng.

Di sản thế giới tại Việt Nam 11: Nhã nhãc âm nhạc cung đình Việt Nam, ảnh Nhã nhạc,  Ban Đại nhac cung đình Huế đang trình tấu tại sân Thế Tổ Miếu, nguồn Bảo tàng cổ vật Huế (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

11. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ

Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại tại một phiên họp được tổ chức tại Paris nước Pháp ngày 07-11-2003. Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Nhạc lễ nghi sử dụng riêng cho việc cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ và Yến nhạc dùng cho sinh hoạt vui chơi giải trí trong cung của vua chúa và hoàng tộc. Trong đó có cả thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát (múa cung đình, tuồng cung đình). Nhạc cung đình Huế xưa có nhiều thể loại: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc dùng trong các dịp cúng tế trời đất; tổ tông; Đại triều nhạc dùng trong dịp lễ lớn, nghênh tiếp sứ thần; Triều nhạc và Yến nhạc phục vụ nội cung.  Múa cung đình Huế tiêu biểu có: Bát Dật, Lục Cung, Tam Tinh, Đấu Chiến Thắng Phật, Tứ Linh, Trình Tường,Tập Khách, Lục Triệt Hoa Mã Đăng… được phân định và sử dụng phù hợp vào các dịp, mục đích khác nhau. Các dàn nhạc và các bản nhạc cung đình triều Nguyễn cũng rất phong phú được biên soạn khá công phu bao gồm nhiều loại có biên chế khác nhau nhằm phục vụ các Nghi lễ và nhu cầu giải trí trong cung như: Nhã Nhạc, Huyền Nhạc, Ti Trúc Tế Nhạc, Tiểu nhạc, Đại nhạc, Nhạc Thiểu, Cổ Xúy Đại Nhạc, … Có thể nói “Nhã nhạc Huế là di sản văn hóa âm nhạc cổ điển bác học Việt Nam” được hình thành trên cơ sờ kế thừa thành tựu của dòng nhạc cung đình, các triều đại quân chủ trước đó ở Việt Nam và có sự sáng tạo phát triển lên một đỉnh cao mới, đây cũng chính là những giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc Việt Nam . 

12. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25- 11- 2005. Đây là một di sản văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Vùng Tây Nguyên Việt Nam. Phạm vị phân bố của “ Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Từ KonTum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa độc đáo này là 12 dân tộc tụ cư lâu đời nơi đây: Bana, Ê đê, Xê Đăng, Mơ Nông, Rơ Măm, Mạ, Cơho, Gia Rai…  Cồng Chiêng Tây Nguyên là một loại nhạc cụ độc đáo được chế tác chủ yếu bằng đồng có pha thêm một số kim loại khác như vàng, bạc, đồng đen.  Các tộc người Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng làm nhạc cụ nhưng không tự đúc được Cồng Chiêng mà phải mua của các dân tộc láng giềng. Nhưng sau khi mua về với bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, đôi tai thính các nghệ nhân đã biết chỉnh âm lại phù hợp theo hàng âm của tộc người. Chiêng sau khi đã được chỉnh âm sẽ được tổ chức một lễ hiến sinh mời thần Chiêng về trú ngụ trong Chiêng và từ đó “Chiêng mới thật sự là của cải vật chất và tinh thần của con người”,vì vậy Cồng Chiêng mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Đối với người Tây Nguyên, cồng chiêng là cầu nối giao tiếp giữa con người với thần linh. Vì vậy nó được sử dụng nhiều trong các nghi lễ và lệ hội. Thường mỗi tộc người Tây Nguyên đều có một biên chế dàn Chiêng riêng, bản nhạc riêng tùy theo tính chất đặc trưng của từng nghi Lễ mà có nhưng dàn chiêng và bài chiêng phù hợp. Dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong các nghi thức cúng thần khác với dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong nghi thức cầu màu, cầu sức khỏe… Đối với các tộc người Tây Nguyên cồng chiêng là biểu tượng cho sự quyền lực và sự giàu có. Người sở hữu nhiều cồng chiêng không chỉ là người giàu có của cải mà hơn thế còn là người có sức mạnh linh thiêng lớn hơn người khác. Bởi có thần chiêng làm bạn.Chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.  Tự lâu đời, cồng Chiêng có sự gắn bó mật thiết và không thể thiếu trong đời sống tinh thần  của người Tây Nguyên. Cồng Chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là tài sản vô giá về văn hóa lẫn âm nhạc, là di sản văn hóa độc đáo của nhân loại.

Di sản thế giới tại Việt Nam 13: Ca trù Việt Nam, ảnh Ca trù, nguồn BQLDT Hà Nội (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

13. CA TRÙ

Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 01-10-2009. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất, nó có mặt ở 15 tỉnh thành trong cả nước nhưng nhiều nhất ở phía Bắc Việt Nam. Tiêu biểu như ở Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Được khởi nguồn từ trong dân ca dân vũ dân nhạc Việt Nam, Ca trù là “một bộ môn nghệ thuật tổng hợp với nét độc đáo là sự phối hợp đa dạng tinh tế, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa”. Nó được ra đời từ thế kỉ XI và được phát triển rộng rãi từ thế kỉ XV nhưng mãi đến cuối thể kỷ XX mới được thế giới biết đến và được các nhà Nhạc gia, nhạc sĩ nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu giới thiệu tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ca trù còn được gọi là hát Ả đào, hát Cô Đầu, hát Cửa Đình, hát Nhà Trò, … hát Ca trù thường có 5 không gian trình diễn chính, mỗi không gian đều có lối hát và cách thức trình diễn riêng. Để biểu diễn ca trù ít nhất phải có 3 người: một “Đào nương” hay còn gọi là “Ca Nương” vừa hát vừa gõ phách, một “Kép” (Nam nhạc Công) đệm đàn đáy cho người hát và một “Quan Viên” là người điểm trống chầu. Trong đó ca nương là người được đánh giá cao nhất nhưng cũng là người phải khổ luyện và trải qua nhiều thử thách mới được công nhận. Ca trù xưa được tổ chức khá chặc chẽ và có những quy định cụ thể về sự truyền nghề, học đàn, hát, chọn đào nương đi thi hát…  Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo uyên bác. Ca Trù phong phú về lối hát, tinh tế, công phu trong kĩ thuật hát. Ca trù là một trong những kết tinh, nghệ thuật văn hóa tinh tế của tâm hồn người Việt Nam qua bao thế kỷ. Nó mãi là niềm tự hào và xứng đáng là Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền Khẩu của Việt Nam và nhân loại.

Di sản thế giới tại Việt Nam 13: Quan họ Bắc Ninh, ảnh Quan họ Bắc Ninh nguồn Sở VHTT& DL Bắc Ninh (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

14. QUAN HỌ BẮC NINH

Quan họ Bắc Ninh được tổ chức UNESCO công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 30-9-2009. Phạm vi được công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, nhưng tập trung nhiều nhất là ở Bắc Ninh (có 44 làng quan họ). Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca mượt mà, trữ tình của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ, với lối hát giao duyên dân dã mộc mạc nhưng mang đậm nghĩa tình của trai gái thông qua những “Liền Anh” “Liền Chị” hát quan họ. Quan Họ Bắc Ninh cũng là môn nghệ thuật được hợp thành từ những yếu tố như: âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội. Đây cũng là một trong những thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong dân ca Việt Nam. Hát quan họ là hình thức hát đối đáp nam nữ giữa làng này với làng kia mà người ta còn gọi là “Bọn nam” “ Bọn nữ”. Một làng quan họ thường có nhiều “Bọn nam” và “Bọn nữ”. Khi hát có sự phân công hát dẫn, hát cặp để tạo được sự tương hợp về giọng ca. Việc truyền dạy dân ca quan họ cũng rất khác biệt so với các loại dân ca khác đó là tục “ngủ bọn”. Thường thiếu niên nam nữ trong làng từ 9-17 tuổi thường rủ nhau buổi tối tập trung tại nhà ông trùm để học cách nói năng, ứng đối và luyện giọng ghép đôi giữa “Liền anh” và “Liền chị” cho hợp giọng để đi hát. Trang phục và ẩm thực trong Quan họ Bắc Ninh cũng đặc biệt ấn tượng: vừa đẹp và trang trọng, thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà đối với khách cũng như tập quán của mỗi làng quê. Đó là trầu têm cánh phượng cánh quế, chè Thái, mâm son, thịt gà, giò lụa. Trang phục liền chị nổi bật với nón ba tầm, quai thao, khăn mỏ quạ, yếm váy… Liền anh áo the khăn xếp, ô lục soạn, áo the dài nâu thâm đi với quần, dép. Quan họ Bắc Ninh là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc và là một trong những thể loại dân ca có làn điệu phong phú nhất trong kho tàng dân ca Việt Nam.

Di sản thế giới tại Việt Nam 15: Hội Gióng, ảnh Hội Gióng nguồn BQL di tích Hà Nội (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

15. HỘI GIÓNG

Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO công nhận chính thức vào ngày 16-11-2010 tại Hội nghị lần thứ V của Uỷ Ban Liên Chính Phủ theo Công ước năm 2003 tổ chức tại thành phố Nairobi – thủ đô của Kenya. Hội Gióng hằng năm được tổ chức ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) từ ngày 6-8 tháng Giêng âm lịch và ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) từ ngày 6-12 tháng tư âm lịch. Đây là hai địa danh theo truyền thuyết là nơi sinh ra người anh hùng Thánh Gióng và là nơi dừng chân cuối cùng sau khi dẹp tan giặc Ân ông bay về trời. Đây là lễ hội truyền thống để ca ngợi chiến công và tưởng nhớ công ơn của người anh hùng Thánh Gióng. Trong lễ hội có sự tái hiện lại một cách sinh động cảnh các trận đấu giao tranh quyết liệt giữa Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang với giặc Ân theo hình thức chiến tranh giữa các bộ lạc cổ xưa. Lễ hội nhằm giáo dục lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết cộng đồng và tinh thần thượng võ, ý chí đấu tranh kiên cường đồng thời cũng thể hiện khát vọng độc lập tự do của dân tộc.

Di sản thế giới tại Việt Nam 16: Hát xoan ở Phú Thọ, ảnh Đào kép các phường Xoan biểu diễn hát đúm tại đình Lâu Thượng nguồn Bảo tàng Phú Thọ (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

16. HÁT XOAN Ở PHÚ THỌ

Hát Xoan ở Phú Thọ Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 24-11-/2011. Hát Xoan còn được gọi là khúc môn đình (hát cửa đình) được xuất hiện từ thời đại Hùng Vương cách ngày nay khoảng hơn 2000 năm. Đây là lối hát thờ thần xưa thường được tổ chức hát vào mùa Xuân. Hát Xoan có 3 hình thức: hát thờ cúng các vua Hùng, thành Hoàng làng, hát cầu mùa, cầu sức khỏe, hát lễ hội (giao duyên nam nữ). Phạm vi phân bố của Hát Xoan tập trung chủ yếu từ những làng cổ thuộc địa bàn trung tâm Văn Lang xưa thời vua Hùng ở Phú Thọ, tiêu điểm như An Thái, Phù Đức, Kim Đới  ở hai xã Kim Đức và Phương Lâu (Phú Thọ) và sau được lan tỏa ra một số làng quê dọc theo hai bên bờ sông Lô, sông Hồng và tỉnh Vĩnh Phúc. Trong Hát Xoan khi biểu diễn thể hiện nhiều dạng thức như: hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc, đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca, hát đối đáp, hát xen, hát đuổi, hát có lĩnh xướng…Về sắc thái âm nhạc cũng rất phong phú đa dạng. Múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau. Nội dung lời ca có phần khấn nguyện, chúc tụng và mô tả sản xuất, sinh hoạt, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể nói về truyện xưa. Hát Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể chưa đựng nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó có một sức sống mãnh liệt được lưu truyền gìn giữ qua bao thế hệ và sẽ mãi trường tồn, đồng hành cùng cộng đồng dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại.

Di sản thế giới tại Việt Nam 17: Đờn ca tài tử Nam Bộ, ảnh Cảnh sinh hoạt đờn ca tài tử Bảo tàng Bạc liêu cung cấp (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

17. ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ

18. DÂN CA VÍ DẶM NGHỆ TĨNH

Dân ca Ví dặm Nghệ Tĩnh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 27-11-2014. Đây là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca khá phổ biến và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nó mang đậm bản sắc, tâm hồn cũng như cốt cách của người dân Nghệ Tĩnh. Dân ca Ví dặm được người dân nơi đây hát trong mọi hoạt động của đời sống như khi  ru con, dệt vải, gặt lúa, chèo thuyền… Nội dung lời ca của dân ca Ví dặm ca ngợi những giá trị nhân văn sâu sắc như tinh thần yêu nước, tôn sư trọng đạo, hiếu kính với cha mẹ, lòng chung thủy, cách ứng xử, sống có nghĩa có tình…kêu gọi gắn kết cộng đồng chống áp bức bất công trong xã hội. Hát ví thường là hát tự do, ngẫu hứng theo lối hát ví von để đối đáp hai bên nam nữ. Có nhiều loại ví khác nhau như: ví phường cấy, phường gặt, phường nón, phường vải, ví đò đưa…  Hát dặm là thể hát nói bằng thơ ngụ ngôn thường có tiết tấu rõ ràng. Dặm mang tính tự sự, tự tình, khuyên răng, giải bày. Nhiều khi lại dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng. Hát dặm Nghệ Tĩnh cũng có rất nhiều loại khác nhau: dặm nói, dặm kể, dặm vè, dặm ru, dặm nam nữ, dặm cửa quyền, dặm xẩm… Dân ca ví dặm có lối hát rất gần gũi, mộc mạc đặc biệt sử dụng nhiều từ ngữ và ngữ điệu phương ngữ Nghệ Tĩnh có khả nặng biểu đạt tư tưởng tình cảm của người dân xứ Nghệ Tĩnh đồng thời góp phần giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống, lòng yêu nước, gắn kết cộng đồng. Nó có một sức sống mãnh liệt và là nguồn cảm hứng âm hưởng dân ca cho các nghệ sĩ kế thừa và phát huy trong các tác phẩm đương đại, góp phần làm giàu thêm di sản văn hóa tinh thần và sự phát triển bền vững của xã hội thời hiện đại.

 19. KÉO CO

20. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TAM PHỦ

Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt được tổ chức UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 01-12-2016. Đây là một tín ngưỡng dân gian thờ các thần linh thiên nhiên có từ lâu đời của người Việt được xuất hiện từ thời tiền sử với khái niệm Thánh Mẫu, sau dần phát triển thành tín ngưỡng Tam Phủ (Thiên phủ, Địa phủ, Thoại phủ). Đến thế kỷ XVI cùng với sự xuất hiện của Thánh mẫu Liễu Hạnh một tín ngưỡng bản địa mới được hình thành đó là đạo Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn gắn liền với nghệ thuật hát chầu văn (hát hầu đồng) – một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của người Việt. Nghi lễ hầu đồng là nghi thức tín ngưỡng tiêu biểu của đạo Mẫu. Đây là nghi thức giao tiếp với thần linh, các vị thánh thông qua các ông đồng, bà đồng. Thường các vị thánh sẽ hóa thân vào nhân vật dùng nhạc thơ, lời kể lại chuyện. Đồng thời thể hiện quyền lực như trừ ma, phán bệnh, ban phúc lộc… Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ là một phong tục tập quán thờ cúng nữ thần và những nhân vật anh hùng có trong lịch sử, những người có công với đất nước là một nét văn hóa đặc sắc trong văn hóa tâm linh của người Việt và một số dân tộc khác như Mường, Dao, Nùng…Đây là loại hình nghệ thuật dân tộc độc đáo có lối trình diễn kết hợp nhiều yếu tố như: âm nhạc, trang phục, múa và diễn xướng. 

21. MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN

Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế (IAC) thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm không chỉ ở Việt Nam mà còn hiếm có trên toàn thế giới. Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc trên gỗ để in các loại sách lưu hành tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Mộc bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ được 34.619 tấm trong đó bao gồm cả những ván khắc in thu được ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội đua vào Huế lưu trữ. Tài liệu được khắc trên mộc bản rất tinh xảo và sắc nét với nội dung ghi lại các sự kiện lịch sử, các cuộc tiểu trừ giặc giã, công danh sự nghiệp của các bậc quân vương. Đồng thời nhân bản các bộ luật, các quy định về chuẩn mực xã hội để phổ biến bắt buộc mọi thần dân phải tuân thủ. Tất cả các bản thảo nói trên đều phải qua sự ngự lãm và phê duyệt bằng bút tích của Hoàng đế trước khi chuyển giao cho những nghệ nhân tài hoa trong ngự xưởng của cung đình khắc lên các loại gỗ quý như gỗ thị, nha đồng… Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là những bản khắc in các tác phẩm chính văn, chính sử được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và cuộc đời, hoạt động của những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn tới những biến cố xã hội cũng như tiến trình lịch sử của một dân tộc, của một đất nước. Hiện nay những tài liệu này rất hiếm có trên thế giới. Nó đặc biệt có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam nói riêng và thể giới nói chung.

22. BIA TIẾN SĨ Ở VĂN MIẾU

Bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc (1442 – 1779) Bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc (gồm 82  tám bia tiến sĩ) được Uỷ ban ký ức thế giới khu vực châu Á Thái Bình Dương công nhận là di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNÉSCO vào ngày 09/3/2010. Bia tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội là di sản tư liệu độc đáo duy nhất trên thế giới “không chỉ lưu danh các tiến sĩ đỗ đạt trong các kỳ thi suốt gần 300 năm (1442 – 1779) mà còn ghi lại lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài”. Trên các bia còn ghi rõ người viết văn bia, người dựng bia, ngày tháng dựng bia. Những điều này đã có tác động tích cực đối với xã hội đương thời và hậu thế cũng như khẳng định về tính xác thực, nguyên gốc và duy nhất của tư liệu. Nội dung văn bia đều do các nhà trí thức, danh nhân văn hóa biên soạn. Chữ viết và hoa văn trang trí trên các tấm bia sắc sảo, cầu kỳ mang tính nghệ thuật cao. Có thể nói mỗi tấm bia vừa là một tác phẩm thư pháp vừa là một tác phẩm thuật điêu khắc tinh tế và độc đáo với phong cách trang trí mang đậm dấu ấn của nghệ thuật đương thời. Với những giá trị lịch sử, văn hóa. nghệ thuật cũng như tính duy nhất, hiếm có của 82 tấm bia tiến sĩ, bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) là di sản tư liệu vô giá, là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam và nhân loại trên toàn thế giới.

23. MỘC BẢN KINH PHẬT

Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm được Ủy ban UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày 16-05-2012. Đây là bộ Mộc bản gốc, duy nhất của Phật phái Trúc Lâm còn lưu giữ được đến ngày nay tại chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ở đây còn lưu giữ được 3.050 bản khắc với hơn 10 đầu sách kinh phật. Trong đó chủ yếu là kinh sách, luật giới nhà Phật, trước tác của Tam Thế Tổ: Điếu Ngư Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Thiền Sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương, Thiền Sư Huyền Quang Lý Đạo Tái và một số bản in sớ điệp của Phật phái Trúc Lâm, mộc thư ghi chép lại cách chữa bệnh bằng châm cứu, bằng các loại thảo dược (thuốc nam). Các mộc bản này được san khắc vào giai đoạn vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chùa Vĩnh Nghiêm là một trong những trung tâm đào tạo và ấn hành xuất bản lớn nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Đồng thời cũng là nơi lưu giữ hồ sơ các tăng ni trên toàn quốc. Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm đều được làm bằng gỗ thị, chữ được khắc ngược trên cả hai mặt. Kỹ thuật khắc và trang trí thực hiện đúng theo quy chuẩn in của Việt Nam. Chữ khắc chủ yếu là chữ Hán cổ, chữ Nôm và một số ít có khắc xen cài thêm chữ Phạn. Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm là một di sản văn hóa phi vật thể vô giá của Việt Nam và của nhân loại bởi nó không những hàm chứa những giá trị tư tưởng, giáo lý của Phật phái Trúc Lâm mà còn có tính độc bản, nguyên gốc mang tính nghệ thuật cao. Đồng thời đây cũng là nguồn cung cấp thông tin phong phú và đáng tin cậy khi người xem có nhu cầu tìm hiểu nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như: tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, y học, mỹ thuật. 

24. CHÂU BẢN NHÀ NGUYỄN

Châu bản triều Nguyễn được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày 14-05-2014 tại Hội nghị lần thứ 6 của Uỷ Ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOW CAP). Đây là những văn bản triều chính mà trong quá trình điều hành được các vua triều Nguyễn tự phê bằng mực son đỏ (từ 1802-1945). Toàn bộ khối Châu bản triều Nguyễn có 773 tập với khoảng 85.000 văn bản của 11 triều vua thời Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại (không có của một vài vị vua không tại vị lâu). Các châu bản hầu hết được viết tay trên giấy dó và có nội dung khá phong phú về loại hình: chiếu, dụ, chỉ, sớ, tấu, khải, phúc, phiếu trình, phiếu nghỉ…Trong đó quy định rất rõ và chặt chẽ về chức năng và thẩm quyền. Nội dung phản ánh các vấn đề trong đời sống xã hội, các biến động về lịch sử, chính sách đối nội, đối ngoại của Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ XIX đến nữa đầu thế kỷ XX. Các sự kiện ghi chép trong Châu bản có tính xác thực cao bởi đó là những thông tin được tiếp nhận và xử lý của các vua triều Nguyễn trong công tác quản lý xã hội. Đây cũng là nguồn sử liệu quan trọng để biên soạn các bộ sách sử và các sách điển lệ chính thống như: Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Quốc Triều chính biên…Châu bản triều Nguyễn còn là tư liệu lịch sử có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc minh chứng chủ quyền của Việt Nam về hai quần đào Trường Sa và Hoàng Sa. Ngoài ra các bút tích phê duyệt của các vua triều Nguyễn và hệ thống chữ viết trên Châu bản (sử dụng bốn loại chữ viết: chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp, chữ Quốc ngữ) đã phản ánh sự biến động của hệ tư tưởng xã hội và sự tác động du nhập của văn hóa phương Tây cũng như hoạt động giao thương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay toàn bộ số Châu bản này đang được gìn giữ bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I (tại tòa nhà số 16 đường Vũ Phạm Hàm, phường Yên Hòa, Cầu Giấy – Hà Nội). 

Di sản thế giới tại Việt Nam 25: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, ảnh Thơ văn trên kiến trúc Huế nguồn Bảo tàng cổ vậ , Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

25. THƠ VĂN TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ

Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế được Ủy ban chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á  Thái Bình Dương (MOW CAP- thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 19-05-2016. Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế bao gồm toàn bộ hệ thống văn tự chữ Hán chủ yếu là các bài văn, thơ được khắc chạm rất công phu và sắc sảo trên gỗ các kiến trúc thuộc quần thể kiến trúc cố đô Huế trong giai đoạn 1802-1945. Theo sự đánh giá của các chuyên gia và các nhà nghiên cứu thì Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế là “di sản tư liệu độc đáo, là những bản gốc duy nhất hiện chỉ có ở Việt Nam và có giá trị nổi bật toàn cầu”.

26. MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG HÀ TĨNH

Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày  19-05-2016 cùng với thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là những bản khắc gỗ chữ Hán ngược dùng đề in sách do dòng họ Nguyễn Huy, làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện Thiên Lộc (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh biên soạn và khắc in để phục vụ việc dạy và học. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh), được hình thành trong quá trình hoạt động giáo dục văn hóa từ giữ thế ký XIIX đến đầu thế kỷ XX. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là di sản tư liệu hiện có 383 bản được làm bằng gỗ những cây thị “đực”, nét chữ khắc tinh xảo với nhiều dạng chữ khác nhau như: Lệ thư, Thảo thư, Giản tự, Cô tự, … Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là khối mộc bản cổ nhất và duy nhất về văn hóa giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ ở Việt Nam. Với những giá trị đặc biệt về hình thức, nội dung cũng như tính xác thực, độc đáo di sản tư liệu này đã có tầm ảnh hưởng tới cả khu vực và quốc tế. Hiện nay khối Mộc bản này đang được bảo quản tại tư gia dòng họ Nguyễn Huy và Bảo tàng Hà Tĩnh.

TÌNH YÊU CUỘC SỐNGCNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

PDF và Video yêu thíchMùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh ThúyRun away with meLiên Khúc Cha Cha (Trữ Tình Cực Hay) Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lạiNgày hạnh phúc của emGiúp bà con cải thiện mùa vụQuà tặng cuộc sống yêu thíchKỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập KhoaBài học chăm sóc sức khỏeSecret Garden, Bí mật vườn thiêng Phim vua SolomonKimYouTube

Trở về trang chínhHoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Du Lịch Di Sản Việt Nam: Du Lịch Di Sản Vịnh Hạ Long 2 Ngày

Ngày 01

Hà nội – Vịnh Hạ Long Ăn: T/ C

: Đón quý khách khởi hành đi Hạ Long, dừng nghỉ thư giãn tại Hải Dương. 07h 45 11h45, Đến bến Hạ long, lên thuyền nghỉ ngơi và ăn trưa .

Du thuyền đi tham quan Vịnh Hạ Long với 13h00: động Thiên Cung và hang Đầu Gỗ – nơi gắn liền với lịch sử chống quân Nguyên – Mông năm 1288 của vua Trần Hưng Đạo. Tiếp tục hành trình trên du thuyền giữa vịnh Hạ Long với hàng ngàn đảo đá tạo nên những hình thù huyền bí và thơ mộng: đảo Rồng, hòn Gà Chọi, hòn Cóc….

Xe đón quý khách về khu 16h45: du lịch Tuần Châu, nhận phòng, nghỉ ngơi và ăn tối. Tối: Xe đưa quý khách đi thăm quan đảo Tuần Châu, xem nhạc nước, dạo chơi bãi biển. Nghỉ đêm tại khách sạn.

Ngày 02

Đảo Tuần Châu – Hà Nội Ăn: S/T

07h00 – 08h30: Dùng điểm tâm sáng tại khách sạn, sau đó tự do tham quan khu du lịch Tuần Châu, xem trình diễn hải cẩu, sư tử biển hoặc tự do tắm biển.

10h00: Xe đón quý khách trở về Hạ Long, ăn trưa tại Nhà Hàng.

13h00: Lên xe về Hà nội, dừng tại Hải Dương thưởng thức đặc sản bánh đậu xanh, bánh gai.. Về tới nội thành lúc 17h30, chia tay quý khách. Kết thúc chương trình.

Khu du lịch Tuần Châu

Vị trí : Khu du lịch đảo Tuần Châu cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 8km.

Đặc điểm : Khu du lịch đảo Tuần Châu có diện tích 220ha, được kiến tạo bởi những ngọn đồi thoai thoải. Một con đường trải bê tông dài khoảng 2km nối đảo với đất liền.

Tại Tuần Châu có rất nhiều hạng mục công trình đã và đang được xây dựng. Từ ngoài cổng đi vào lần lượt du khách sẽ đi qua một khu đồi với khu biệt thự có hạ tầng cơ sở đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đi tiếp vào trong, khu phố ẩm thực với năm nhà hàng và nhà tròn được thiết kế theo kiến trúc cung đình rất đẹp cùng một lúc có thể phục vụ trên 1.000 thực khách với những món ăn Âu, Á và dân tộc do các đầu bếp nổi tiếng trong nước và ngoài nước thực hiện. Các tiếp viên nhà hàng đều mang trang phục truyền thống của Việt Nam. Vào khu trung tâm du khách sẽ choáng ngợp bởi câu lạc bộ biểu diễn cá heo, hải cẩu, sư tử biển được xây dựng rất hiện đại và độc đáo.

Bãi tắm Tuần Châu với thảm cát trải dài 2km sẽ làm cho du khách thoải mái vùng vẫy giữa làn sóng biển trong xanh. Sát bãi biển là khu biệt thự 50 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế 5 sao mang đến cho du khách những phút giây thoải mái. Ở đây còn có trên 300 phòng nghỉ khác đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tại đảo Tuần Châu du khách có thể tham dự các hoạt động thể thao dưới nước: mô tô trượt nước tốc độ cao; ca nô kéo dù, lướt ván; câu cá trên biển Hạ Long; chèo thuyền; khinh khí cầu tham quan vịnh Hạ Long hoặc leo núi, cắm trại… Các dịch vụ: biểu diễn cá heo, sư tử biển, hải cẩu, xiếc thú, võ thuật phục vụ khách liên tục 3 suất/ngày trong tất cả các ngày trong tuần trừ thứ 2, công viên nhạc nước.

Hiện nay khu du lịch đảo Tuần Châu đang hoàn thiện. Rất nhiều dự án khác đang chờ các nhà đầu tư, biến đảo Tuần Châu thành đảo Ngọc Châu của Hạ Long, với ước mong được đón bạn đến với năm “Du lịch Hạ Long”.

Ðộng Thiên Cung

Vị trí : Nằm ở phía bắc đảo Đầu Gỗ, cách cảng tàu du lịch 4km về phía nam.

Đặc điểm : Là một trong những hang động đẹp nhất ở Hạ Long. Hang rộng, có nhiều cấp nhiều ngăn với vô vàn nhũ đá, măng đá mang những hình thù kỳ lạ.

Hang này nằm ngay gần hang Đầu Gỗ, cửa hang ở trên độ cao 25m. đây là một hang động vào loại đẹp nhất ở Hạ Long mà con người biết tới. Hang rộng gần 10.000m2 có cấu trúc rất phức tạp, gồm nhiều cấp, nhiều ngăn với các trần và bờ vách rất cao, rộng. Đặc biệt trong hang, ở đâu đâu ta cũng thấy vô vàn các khối nhũ, măng đá với các hình dáng kì lạ. Vì vậy người ta đã hình dung ra cả một huyền thoại về cuộc tình và sự chia tay của Rồng bố, Rồng mẹ đã diễn ra trên vách đá hoặc nghĩ rằng đây là hình ảnh của các mê cung của Hoàng đế Ba Tư trong chuyện Nghìn lẻ một đêm.

Ở ngách phía trong, hang lại thông ra ngoài bằng một cửa nhỏ, nhìn xuống một vịnh biển nhỏ bị vây kín bởi một vùng cung núi. Trong hang cũng thấy có một dòng chữ trên vách đá và con số 1901. Có lẽ đây là bút tích của nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm tới hang này. Bây giờ người ta đã xây hẳn một hệ thống cầu thang, hành lang đẹp và công phu cả ở bên ngoài và bên trong hang với các hệ thống đèn chiếu sáng để du khách dễ dàng vào thăm hang. Ngày 1/5/1998, động Thiên Cung chính thức mở cửa đón du khách và từ đó đã tạo thành một làn sóng du lịch để về vịnh Hạ Long. Đây là chiếc động đầu tiên ở Hạ Long đã được con người sủa sang với quy mô lớn. Sắp tới hang này sẽ được sửa sang một lần nữa với mục đích cố gắng giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên của nó.

Lung linh Vịnh Hạ Long

Ngay cạnh lối ra vào là nhũ đá có hình con ngựa và một thanh gươm dài. Truyền thuyết xưa kể rằng, sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã giúp dân chúng ở đây đánh đuổi yêu ma, khi dẹp xong loạn Thánh Gióng bay về trời, để lại thanh gươm và con ngựa quý để trấn an dân chúng, xua đuổi yêu quái. Hiện nay trong hang còn nhiều hình ảnh tự nhiên dường như là những dấu tích của trận chiến ác liệt đó, vết chân ngựa Gióng trở thành những ao hồ nhỏ xinh xinh cùng nhiều tảng đá to lớn vỡ vụn…

Giữa hang có một cột nhũ khổng lồ nối thẳng từ nóc xuống nền hang, rất đẹp. Khi đi gần hết hang, ta trông thấy những tảng đá khổng lồ, to hơn một căn phòng, nằm dưới đáy hang mà phần trên của các tảng đá này tưởng như có thể lắp khít lên trần hang phía trên cao. Chính các tảng đá này đã rơi từ trên đó xuống. Ở đáy hang, ta cũng thấy vỡ ra nhửng mảng lớn để lộ những con đường ngầm, ngõ ngách sâu thẳm. Từ tháng 1 năm 1999, người ta đã xây một lối đi dài 800m uốn quanh lòng hang.

Sự tích vịnh Hạ Long kể rằng: Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ, vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc và thoắt biến thành muôn ngàn đảo đá trên biển, như bức tường thành vững chắc, bất ngờ chặn bước tiến của thuyền giặc. Đoàn thuyền của giặc đang lao nhanh, bị chặn đột ngột đâm vào các đảo đá và đâm vào nhau vỡ tan tành. Sau khi giặc tan, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến. Vị trí Rồng Mẹ xuống là Hạ Long, Rồng Con xuống là Bái Tử Long. Đuôi đàn Rồng quẫy nước trắng xoá là Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay) thành bãi cát mịn và dài hơn chục ki lô mét.

Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, là một phần bờ tây vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía tây giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn trong các tọa độ từ 1060 58′ – 1070 22′ kinh độ Đông và 200 45′ – 200 50′ vĩ độ bắc, với tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo ở Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía tây nam vịnh Hạ Long. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển. Quá trình Caxto bào mòn, phong hoá gần như hoàn toàn tạo ra một Hạ Long độc nhất vô nhị trên thế giới. Trong một diện tích không lớn, hàng ngàn đảo đá với muôn hình, dáng vẻ khác nhau như những viên ngọc bích long lanh được đính lên chiếc khăn voan xanh biếc của nàng thiếu nữ. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản Thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long.

Vùng Di sản được Thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam) và đảo Cống Tây (phía đông). Vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hoá, của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vô tri tĩnh lặng kia trở nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình dáng vẻ yêu kiều, vừa rất quen thuộc vừa như xa lạ với con người. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước – Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá – hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi – hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hoá khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.

Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là “kỳ quan đất dựng giữa trời cao”. Bao tao nhân mặc khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều cảm thấy bàng hoàng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long, dường như họ đều cảm thấy lúng túng và bất lực bởi vốn từ hiện có vẫn chưa đủ để mô tả vẻ đẹp của Hạ Long. Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa dòng sông Bạch Đằng – là chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng…

Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng như tôm, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây. Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới. Năm 2000, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận lần thứ hai Di Sản thế giới bởi giá trị địa chất, địa mạo. Điều đó đã khẳng định giá trị ngoại hạng mang tính toàn cầu của vịnh Hạ Long. Dẫu bạn ở đâu trên thế gian này, là người da trắng hay da màu, không kể quốc tịch, ngôn ngữ, tuổi tác… khi đặt chân đến đây cũng đều có chung những cảm xúc, sự rung động của con tim trước một kỳ quan của đá và nước, và khi phải chia tay Hạ Long chắc sẽ để lại những ấn tượng khó quên… Câu chuyện huyền thoại xa xưa về đàn rồng mẹ và đàn rồng con đã phun châu nhả ngọc tạo nên hàng ngàn đảo đá ngăn bước quân thù, hôm nay vẫn đứng đó tạo nên một di sản vô giá cho nhân loại.

Bạn đã có dịp đến với Hạ Long – Di sản có một không hai trên thế giới để được chiêm ngưỡng và khám phá những bí mật còn ẩn chứa nơi này?

Tôn Vinh Di Sản Văn Hóa, Du Lịch Biển Đảo Việt Nam

Triển lãm là một trong những điểm nhấn tại Năm Du lịch Nha Trang, Khánh Hòa 2019 do Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam phối hợp cùng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố: Khánh Hòa, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Phú Yên, Đắk Lắk, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Cà Mau và đoàn Nghệ thuật dân gian (Trung tâm Văn hóa Người Cao tuổi Việt Nam) tổ chức.

BTC cho biết, ngoài việc tôn vinh, quảng bá những giá trị văn hóa đặc sắc vùng biển đảo Việt Nam, giới thiệu tiềm năng du lịch biển đảo, tạo động lực thu hút mạnh mẽ các nguồn lực phát triển du lịch, triển lãm còn góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, đẩy mạnh đoàn kết, giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong tổ chức các hoạt động văn hóa, quảng bá du lịch hiệu quả đối với các đơn vị tham gia hoạt động.

Theo đó, khu vực Triển lãm chung “Di sản Văn hóa, Du lịch biển đảoViệt Nam” sẽ cho thấy một bức tranh tổng quát về biển, đảo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử với hơn 200 hình ảnh giới thiệu tư liệu, hiện vật, bản đồ cổ, tư liệu Hán, Nôm về Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, trang phục lễ hội cư dân vùng biển… châu bản triều Nguyễn có nội dung về chủ quyền biển đảo đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Sự quan tâm, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Xây dựng bảo vệ biển đảo quê hương luôn gắn với xây dựng đời sống văn hóa cư dân trên các vùng biển, đảo Việt Nam, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Triển lãm cũng giới thiệu về nét đẹp văn hóa biển đảo Việt Nam trong lòng dân tộc và bạn bè quốc tế thông qua những hình ảnh, tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí, âm nhạc về biển đảo. Giới thiệu và quảng bá tiềm năng phát triển du lịch biển đảo Việt Nam thông qua những hình ảnh đẹp; trưng bày bộ sưu tập ngư cụ đánh bắt và công cụ lao động sản xuất cư dân vùng biển: thuyền, lưới đánh cá… và 150 hiện vật gốm cổ vùng biển của nhà sưu tập Lâm Dũ Sênh đến từ Quảng Ngãi.

Ngoài ra, khu vực trưng bày của các tỉnh, thành phố có biển tham dự Triển lãm cũng có nội dung trưng bày riêng với tên gọi: Không gian “Sắc màu Di sản Văn hóa – Du lịch biển đảo” các tỉnh, thành phố. Tại khu trưng bày này sẽ giới thiệu và làm nổi bật những giá trị đặc trưng về di sản văn hóa, di tích danh thắng, lễ hội, ẩm thực, du lịch biển đảo, các chương trình nghệ thuật dân gian vùng biển và bán các sản phẩm từ biển, hải sản, đặc sản của các tỉnh. Tại khu trưng bày, các chương trình văn hóa nghệ thuật đặc trưng, trình diễn lễ hội vùng biển đảo sẽ được tổ chức thường xuyên.

Trong thời gian triển lãm mở cửa, các hoạt động trình diễn, giao lưu văn hóa nghệ thuật cũng liên tục được tổ chức với sự tham gia của các đoàn nghệ thuật từ các vùng miền văn hóa khác nhau trên cả nước. Đại diện BTC khẳng định: Triển lãm “Di sản Văn hóa, Du lịch biển đảo Việt Nam” trong khuôn khổ Năm Du lịch Quốc gia năm 2019 Nha Trang, Khánh Hòa là một trong những hoạt động có ý nghĩa, thông qua hình thức tuyên truyền trực quan, góp phần quảng bá hiệu quả về di sản văn hóa, du lịch biển đảo Việt Nam, thúc đẩy phát triển du lịch, khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

VŨ MINH

Du Lịch Qua Những Miền Di Sản Việt Bắc

Suối Lê-nin, núi Các Mác tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó (Cao Bằng).

Cái cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/Nàng về nuôi cái cùng con/Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

Câu ca dao xưa không biết từ lúc nào đã trở thành niềm thôi thúc mạnh mẽ nhiều du khách muốn được khám phá về vùng đất nơi địa đầu Tổ quốc này.

Với những nét độc đáo, đặc sắc về cảnh quan, lịch sử và văn hóa, trong đó, Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) Non nước Cao Bằng với những giá trị đặc biệt về địa chất, địa mạo, Cao Bằng là điểm đến hấp dẫn, lý thú không thể bỏ qua của du khách trên hành trình đến với vùng Việt Bắc.

Cao Bằng nổi tiếng với Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước. Cùng với đó, Cao Bằng còn có nhiều điểm du lịch lịch sử nổi tiếng, hấp dẫn khác, như: Khu di tích Quốc gia đặc biệt Rừng Trần Hưng Đạo – nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam; Di tích đồn Phai Khắt – Nà Ngần là 2 trận đấu đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sau khi được thành lập; Khu di tích lịch sử Chiến dịch Biên giới 1950 – Chiến dịch đầu tiên và cũng là duy nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận chỉ huy quân và dân ta đánh giặc; Khu di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng …

Cao Bằng cũng được biết đến với hình ảnh thác Bản Giốc hùng vĩ hòa quyện giữa cảnh quan núi rừng, tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình. Thác Bản Giốc được xem là dòng thác đẹp nhất Việt Nam, nằm trên đường biên giới Việt – Trung, là thác nước tự nhiên lớn nhất Đông Nam Á và lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm trên một đường biên giới quốc gia.

Cùng với thác Bản Giốc, thiên nhiên còn ưu ái ban tặng cho mảnh đất nơi đây hàng loạt những hang động tự nhiên đồ sộ, hoang sơ, kỳ thú, như: Động Ngườm Ngao (Trùng Khánh), hang Dơi (Hạ Lang), hang Ki Lu, hang Khuổi Khua (Phục Hòa), Khu Phja Oắc – Phja Đén (Nguyên Bình) và quần thể hồ – sông – hang ngầm Thang Hen (Trà Lĩnh), tạo thành vùng du lịch sinh thái kỳ thú, hấp dẫn nhiều du khách.

Ngoài ra, với nhiều dân tộc quần cư sinh sống, như: Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa, Lô Lô…, đây cũng là vùng đất có nền văn hóa đặc trưng hấp dẫn khách du lịch đến khám phá và trải nghiệm. Đến Cao Bằng, du khách có thể thưởng thức những điệu hát then – đàn tính, hát lượn, sli, Dá Hai…; khám phá nét độc đáo trong các nghi lễ của dân tộc thiểu số, như: Lễ mừng thọ của người Tày, Lễ cấp sắc dân tộc Dao, Sán Chỉ, đám cưới của người Lô Lô đen, người Mông; Lễ hội Nàng Hai, Hội Thanh Minh, Hội chùa Sùng Phúc… và thưởng thức những đặc sản nổi tiếng, mang đậm nét ẩm thực dân tộc, như: thịt vịt quay, phở chua, bánh coóng phù, lạp sườn, xôi trám, hạt dẻ, bánh chè lam… Sau đó, du khách đừng quên mua quà lưu niệm của miền biên viễn Cao Bằng về tặng người thân bằng những kỷ vật rất độc đáo, như: nón lá, khèn Mông, thổ cẩm, đàn tính…

Đến với Cao nguyên đá Đồng Văn

Sau khi đã khám phá vùng non nước Cao Bằng, tiếp tục theo Quốc lộ 34, qua “con đường Hạnh Phúc”, du khách sẽ đến với CVĐCTC Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang).

Nằm ở độ cao trung bình 1.000 – 1.600 m so với mực nước biển, Cao nguyên đá Đồng Văn trải dài diện tích gần 2.356 km² thuộc 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn. Đồng Văn có tới 80% diện lộ đá vôi, được tạo thành từ những điều kiện môi trường và giai đoạn phát triển rất khác nhau kéo dài hàng trăm triệu năm và chứa đựng những vết tích về lịch sử phát triển của vỏ trái đất.

Cột cờ Lũng Cú trên Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang). Ảnh: Internet

Đến với Cao nguyên đá Đồng Văn, du khách sẽ được đi trên cao nguyên đá hùng vĩ, những cánh đồng hoa tam giác mạch bát ngát, những ruộng bậc thang lúa chín vàng. Đứng trên đỉnh Mã Pì Lèng nhìn xuống là dòng sông Nho Quế uốn lượn theo chân núi như một dải lụa mềm, chiêm ngưỡng Cột cờ Lũng Cú…

Ngoài giá trị địa chất, giữa muôn trùng núi đá kỳ vĩ, vùng đất này còn là nơi chung sống của đồng bào các dân tộc như: Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Pu Péo… ẩn chứa nhiều truyền thống văn hóa đặc sắc. Trong đó, phải kể đến phiên chợ tình Khau Vai diễn ra vào ngày 27/3 (âm lịch) hằng năm. Sự hùng vĩ của núi rừng, phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, thơ mộng cùng nền văn hóa và lòng hiếu khách của con người trên Cao nguyên đá tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách một lần đến với Đồng Văn.

So sánh về vẻ đẹp của CVĐCTC Cao nguyên đá Đồng Văn và CVĐCTC Non nước Cao Bằng, Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam nói: Nếu nói CVĐCTC Cao nguyên đá Đồng Văn là một chàng trai mạnh mẽ, dữ dội, nam tính thì CVĐCTC non nước Cao Bằng là một thiếu nữ dịu dàng, nữ tính. Hai CVĐC là sự bổ trợ, bổ sung rất có giá trị cho nhau, cùng góp phần để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực giữa chúng (các huyện phía Đông Hà Giang và phía Tây Cao Bằng) cũng như trên toàn miền Đông Bắc Việt Nam.

Tuyên Quang – Thủ đô Kháng chiến

Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang có 584 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, trong đó có 133 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia (có 6 danh lam thắng cảnh) và 250 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Nổi bật nhất là Khu du lịch lịch sử, văn hóa và sinh thái Tân Trào, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nơi đây từng là “Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô Kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã ở, làm việc trong kháng chiến.

Cây đa Tân Trào trong Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Ảnh: Internet

Tuyên Quang còn có gần 70 di tích đền, chùa không chỉ nổi tiếng linh thiêng, mà còn có bề dày lịch sử, kiến trúc độc đáo cổ xưa, với phong cảnh hữu tình, nguyên sơ, huyền bí như đền Lâm Sơn, đền Cảnh Xanh, đền Mỏ than, chùa An Vinh, chùa Hang, đền Pác Tạ, đền Thác Cái, chùa Phúc Lâm, đền Bách Thần, đền thờ Bác Hồ. Ngoài ra, có trên 40 lễ hội được duy trì tổ chức hằng năm, trong đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận 8 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đến dịp Trung thu, Tuyên Quang diễn ra “Lễ hội Thành Tuyên”. Lễ hội được nhân dân các dân tộc Tuyên Quang tổ chức với sự tham gia, đóng góp tự nguyện sức người, sức của làm nên những mô hình yêu thích, diễn diễu trên đường phố, trong đó đặc biệt là nhân dân thành phố Tuyên Quang.

Để phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hóa, Tuyên Quang tăng cường kêu gọi đầu tư phát triển hạ tầng du lịch kết hợp với triển khai đồng bộ các dự án phục hồi, tu bổ, tôn tạo các di tích. Chú trọng sưu tầm, khai thác, phát huy các giá trị di sản văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Xây dựng dự án bảo tồn các làng văn hóa trên địa bàn nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, kết hợp khai thác phát triển du lịch cộng đồng. Đồng thời, đẩy mạnh liên kết du lịch vùng ATK với các khu du lịch thuộc các tỉnh lân cận và trong vùng Việt Bắc.

Miền đất ”Đệ nhất danh trà”

Thái Nguyên đệ nhất danh trà/Nước xanh như cốm đậm đà tình em/Ai qua nhớ ghé vào xem/Để rồi thưởng thức vấn vương cõi lòng.

Khi đọc những câu thơ trên chắc hẳn ai cũng muốn đến với Thái Nguyên, đến với vùng chè nổi tiếng bao đời nay. Là một tỉnh Đông Bắc Bộ nằm tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế – xã hội giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh trung du miền núi. Vùng đất này được thiên nhiên ban tặng những điều kiện vô cùng phù hợp để phát triển canh tác nông – lâm nghiệp, đặc biệt là cây chè. Chính vì lẽ đó, Thái Nguyên được ví là miền đất “Đệ nhất danh trà”.

Có thể nói, hầu hết vùng quê nào của Thái Nguyên cũng có chè, nhưng tập trung và nổi tiếng nhất chính là vùng chè Tân Cương. Vùng chè đặc sản Tân Cương nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 10 km về phía Tây Nam, tập trung chủ yếu ở 3 xã: Tân Cương, Phúc Xuân, Phúc Trìu, với diện tích trồng chè trải rộng hơn 1.300 ha. Nơi đây không những nổi tiếng với sản phẩm chè ngon hảo hạng mà còn có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, núi sông thơ mộng và gần với khu du lịch Hồ Núi Cốc, thuận tiện cho du khách kết hợp tham quan. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho vùng đất này linh khí, hồn cốt, làm nên thứ chè đặc sản mà ai đã từng thưởng thức thì khó có thể nào quên.

Đồi chè Tân Cương, Thái Nguyên. Ảnh: Internet

Du lịch Đồi chè Tân Cương, bạn sẽ được dịp chiêm ngưỡng những nương chè xanh mướt mát, mà khi lên hình càng thêm lung linh sắc màu thơ mộng; được ngắm nhìn những động tác hái chè điêu luyện như đang múa của chị em phụ nữ trên nương và tìm hiểu cách thức sao chè, vò chè bằng phương pháp truyền thống lẫn hiện đại. Ngoài ra, bạn có thể tìm đến thăm thú những cây chè cổ nhiều năm tuổi tại xóm Lam Sơn ngay dưới chân núi Guộc và nghe người già kể những chuyện thú vị về Đồi chè Tân Cương.

Không chỉ được biết đến là thủ phủ của chè với hương vị khiến thực khách mê mẩn ngay từ lần đầu nhấp môi, Thái Nguyên còn hấp dẫn du khách bởi hàng loạt thắng cảnh tự nhiên cùng những di tích lịch sử vô cùng hấp dẫn du khách, như: Hồ Núi Cốc, khu di tích lịch sử ATK ở xã Phú Đình, thác bạc 7 tầng Khuôn Tát, di tích hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà trong vắt, đèo De, đình Kha Sơn, chùa Mai Sơn, rừng Mấn, núi Hồng…

Về xứ Lạng

Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của Tổ quốc, nơi có 253 km đường biên giới với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), Lạng Sơn đã được thiên nhiên ưu ái dành tặng nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại và du lịch. Vì thế du lịch Lạng Sơn ngày càng hấp dẫn và thu hút khách du lịch hơn.

Một lần đặt chân đến với Lạng Sơn, hẳn bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp nên thơ “sơn thuỷ hữu tình” của cảnh quan thiên nhiên nơi đây. Cùng với dòng sông Kỳ Cùng chảy ngược về phương Bắc nằm giữa lòng thành phố như một điểm nhấn ấn tượng là quần thể di tích Nhị – Tam Thanh – “Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng” và nổi tiếng hơn với biểu tượng về lòng chung thuỷ sắt son của người phụ nữ Việt Nam – nàng Tô Thị bồng con đứng ngóng chồng nơi ải Bắc, mà từ lâu đã tạc vào trong lòng mỗi người dân đất Việt bằng câu ca dao: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.

Lạng Sơn còn có chợ Kỳ Lừa lúc nào cũng đông vui, tấp nập người bán, người mua. Khu chợ nổi tiếng này đã có từ cách đây hàng trăm năm, mỗi tháng họp sáu phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch. Chợ Kỳ Lừa là nơi giao lưu văn hóa của các dân tộc ít người. Vào các ngày chợ phiên, thanh niên các dân tộc Tày, Nùng, Dao nô nức về đây để mua sắm hàng hóa, tìm bạn gặp gỡ, trao đổi tâm tình. Chợ Kỳ Lừa ngày nay đã được tôn tạo và mở cửa cả ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương, cùng với cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến Lạng Sơn

Nói đến du lịch Lạng Sơn, không thể không nhắc đến dãy núi Mẫu Sơn nằm ở độ cao 1.541m so với mặt biển, với diện tích 10.470 ha, khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm 15,6 độ C, rất thích hợp cho nghỉ dưỡng. Mùa hè ở đây khí hậu mát mẻ, mùa đông đỉnh núi luôn bị sương mù bao phủ, những ngày giá rét thỉnh thoảng có tuyết rơi. Khi mùa xuân về, cả vùng Mẫu Sơn đỏ rực hoa đào. Hiện Mẫu Sơn đang triển khai dự án xây dựng khu nghỉ dưỡng và có nhiều dự án phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch leo núi.

Lạng Sơn là mảnh đất có bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng với hơn 300 lễ hội truyền thống đặc sắc. Bên cạnh đó, gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông, Lạng Sơn có hơn 600 di tích lịch sử, di tích cách mạng, như: Ải Chi Lăng, Thành Nhà Mạc… Lạng Sơn từ lâu được biết đến là mảnh đất tạo ra những sản vật Xứ Lạng rất độc đáo như: vịt quay mác mật, lợn sữa quay, bánh cao sằng, bánh cuốn trứng, bánh áp chao, phở chua, rượu Mẫu Sơn, hồng Bảo Lâm, quýt Bắc Sơn…

Lung linh “Hồ trên núi”

Ngược Quốc lộ 3, du khách tiếp tục khám phá những giá trị di sản của tỉnh Bắc Kạn. Nơi đây có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch, đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái.

Về tài nguyên du lịch tự nhiên, Bắc Kạn có nhiều hang động, thác, hồ như: Động Puông, động Hua Mạ, động Nà Phoòng, thác Đầu Đẳng, thác Bản Vàng (huyện Ba Bể); động Nàng Tiên, thác Nà Đăng (huyện Na Rỳ); thác Nà Khoang (huyện Ngân Sơn); thác Khuổi Đeng (huyện Chợ Mới); thác Bạc, động Áng Toòng (Thành phố Bắc Kạn)… Đặc biệt, hồ Ba Bể nằm ở trung tâm Vườn Quốc gia Ba Bể là danh lam thắng cảnh đẹp được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia năm 1996, được Thủ tướng Chính phủ công nhận, xếp hạng Di tích danh thắng Quốc gia đặc biệt (năm 2012). Hội nghị các Hồ nước ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ tháng 3/1995 đã công nhận hồ Ba Bể là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ, đây là lợi thế riêng có của du lịch Bắc Kạn. Vườn Quốc gia Ba Bể còn được công nhận là di sản Quốc gia, di sản ASEAN, khu RAMSAR (vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế) thứ 1938 của thế giới và là khu RAMSAR thứ 3 của Việt Nam.

Bắc Kạn còn có các di tích lịch sử cách mạng thuộc khu ATK (Bản Ca, Pù Cọ, Nà Quân, Nà Pậu, Khuổi Linh, đồi Khau Mạ…); di tích Nà Tu, di tích Đồn Phủ Thông, di tích chiến thắng Đèo Giàng (huyện Bạch Thông)…

Hồ Ba Bể (Bắc Kạn). Ảnh: Internet

Đồng chí Hà Văn Trường, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Kạn cho biết: Năm 2017, Bắc Kạn lựa chọn Di tích danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia đặc biệt hồ Ba Bể là nơi tổ chức Chương trình du lịch “Qua những miền di sản” lần thứ IX và Tuần du lịch Ba Bể – Bắc Kạn. Chương trình đã giúp tỉnh Bắc Kạn giới thiệu, quảng bá rõ nét về vẻ đẹp nguyên sơ đầy thơ mộng, hữu tình của hồ Ba Bể và các nét văn hóa, sinh hoạt đặc sắc của đồng bào các dân tộc trong tỉnh nói riêng, sắc thái văn hóa các tỉnh vùng Việt Bắc nói chung. Vì vậy, tham dự Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ X tổ chức tại Cao Bằng năm nay, tỉnh Bắc Kạn tham gia đầy đủ các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch với nhiều hình thức, nội dung phong phú, hấp dẫn với kỳ vọng tiếp tục được giới thiệu, quảng bá tiềm năng du lịch của tỉnh đến với du khách nhiều hơn nữa.

Biết kể sao cho hết những điểm du lịch hấp dẫn tại vùng đất đầy tiềm năng du lịch này. Hãy thử một lần đến đây và cùng khám phá vẻ đẹp thiên nhiên cũng như con người nơi vùng cao Việt Bắc.

Theo báo Cao Bằng