Top 7 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Phát Triển Thương Hiệu Du Lịch Việt Nam Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Tuvanduhocsing.com

Giải Pháp Phát Triển Thương Hiệu Du Lịch Việt Nam

Xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch hiện nay là nhu cầu cấp bách của các quốc gia để tăng cường khả năng cạnh tranh, tạo dựng uy tín và thực hiện thành công phát triển du lịch. Du lịch Việt Nam trong những năm qua đã bước đầu xây dựng được những hình ảnh tích cực.

Tuy nhiên, các hoạt động xúc tiến quảng bá mới chỉ thực hiện một cách đại trà với mục đích thông tin, chưa có chiến lược rõ ràng trong xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia. Với nhu cầu phát triển hiện tại, nếu không được định hướng và quản lý kịp thời, hình ảnh và thương hiệu du lịch Việt Nam có thể không hình thành theo hướng tích cực hoặc không đảm bảo được tính bền vững sẽ ảnh hưởng lâu dài đến phát triển du lịch.

Đề tài Giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam là đề tài mang tính đột phá được Bộ trưởng Bộ VHTTDL giao Viện NCPT Du lịch thực hiện nhằm giải quyết mục tiêu: làm rõ cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đáp ứng xu thế, yêu cầu phát triển của ngành du lịch trong giai đoạn tới.

Đề tài đã tiếp cận theo một quy trình nghiên cứu toàn diện từ lý luận đến thực tiễn, so sánh quốc tế, áp dụng các phương pháp và kỹ thuật trong nghiên cứu xây dựng thương hiệu, nghiên cứu thị trường và xúc tiến quảng bá. Đề tài thực hiện phân tích hai chiều, một mặt đánh giá thực trạng công tác phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá, quá trình hình thành thương hiệu du lịch Việt Nam ở cấp quốc gia, vùng, địa phương, doanh nghiệp; mặt khác nghiên cứu nhận định của thị trường đối với thương hiệu du lịch Việt Nam thông qua các kết quả nghiên cứu tham khảo trong nhiều năm và thực hiện 1.000 cuộc phỏng vấn, điều tra đa đối tượng gồm: khách du lịch quốc tế và nội địa, quản lý nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng tham gia du lịch, từ đó so sánh để tìm ra nhận thức thương hiệu của thị trường. Kết quả nghiên cứu được tiếp tục so sánh với các quốc gia cạnh tranh trong khu vực để đúc rút các yếu tố cốt lõi thương hiệu du lịch Việt Nam được nhận diện tốt nhất. Đề tài cũng bám sát các định hướng phát triển của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 để đề xuất các định hướng và các giải pháp phát triển thương hiệu du lịch.

Các kết quả chính của đề tài: (1) Tổng hợp được toàn bộ các lý luận cơ bản về phát triển thương hiệu điểm đến du lịch; đề xuất quy trình xây dựng và phát triển, nguyên tắc phát triển thương hiệu điểm đến du lịch. (2) Phân tích, đánh giá hai chiều, làm rõ thực trạng thương hiệu du lịch Việt Nam được phát triển và nhận thức; so sánh cạnh tranh khu vực và đúc rút được các giá trị đặc trưng và cốt lõi thương hiệu phù hợp; tìm hiểu được một số bài học quốc tế quan trọng. (3) Đề xuất được định hướng chi tiết về phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến 2020 gồm: giá trị cốt lõi và tính cách thương hiệu, cấu trúc thương hiệu, các định hướng phát triển thương hiệu 7 vùng du lịch, lộ trình định vị, phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam. (4) Đề xuất các giải pháp cụ thể về quản lý phát triển sản phẩm và quảng bá truyền thông để triển khai các giá trị thương hiệu phù hợp cấu trúc và lộ trình; giải pháp quan trọng về quản trị thương hiệu và đầu tư phát triển thương hiệu phù hợp yêu cầu phát triển. (5) Đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thương hiệu: nâng cao nhận thức về thương hiệu du lịch; phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế để thúc đẩy phát triển thương hiệu du lịch.

(

Một Số Giải Pháp Phát Triển Ngành Du Lịch Việt Nam

Những kết quả đạt được

Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với 125 bãi tắm biển, trong đó hầu hết là các bãi tắm rất đẹp và thuận lợi cho khai thác du lịch mà không phải quốc gia nào cũng có như: Trà Cổ, Hạ Long, Lăng Cô, Ðà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc…

Về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh dnước ta có 85 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, 3.329 di tích xếp hạng di tích quốc gia và 9.857 di tích cấp tỉnh.

Đến nay, Việt Nam có 8 di sản vật thể và danh thắng được công nhận Di sản thế giới, đó là: Quần thể di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn, Khu phố cổ Hội An, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành Nhà Hồ, Khu danh thắng Tràng An.

Tính đến hết năm 2016, Việt Nam có 11 di sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản phi vật thể, đó là: Nhã nhạc cung đình Huế; Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca quan họ Bắc Ninh; Ca trù; Lễ hội Đền Gióng; Hát Xoan; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương; Đàn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh; Kéo co; Tín ngưỡng thờ Tam Phủ.

Ngoài những lợi thế trên, Việt Nam còn là nước có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại trong đó có phát triển du lịch.

Những yếu tố trên đã thúc đẩy ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ (Bảng 1). Trong đó, 2016 là năm thành công, phát triển ấn tượng của ngành Du lịch. Tổng số khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2016 lên đến hơn 10 triệu lượt, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2015.

Bên cạnh đó, ngành Du lịch cũng đã phục vụ 62 triệu lượt khách nội địa, trong đó có gần 30 triệu khách lưu trú. Tổng thu từ du lịch đạt 400.700 tỷ đồng, tăng 18,6% so với năm 2015 (Tổng cục Du lịch, 2016).

Tất cả các con số trên đều đã bằng hoặc vượt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đó là đón 10-10,5 triệu lượt khách quốc tế; 47-48 triệu lượt khách nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 17-18 tỷ USD. Như vậy, ngành Du lịch đã về đích trước 4 năm so với Chiến lược đề ra.

Năm 2016 cũng là năm đánh dấu ngành Du lịch vượt qua ngưỡng tăng trưởng cũ. Theo đánh giá của Tổng cục Du lịch, năm 1994 mới chỉ có 1 triệu khách quốc tế đến Việt Nam; Năm 2000 tăng lên 2 triệu lượt khách quốc tế (mỗi năm giai đoạn này chỉ tăng 170.000 lượt khách quốc tế).

Đến năm 2010 đạt 5 triệu lượt khách quốc tế (mỗi năm tăng trung bình 600.000 lượt khách). Đến năm 2016, đã tăng gấp đôi so với mốc năm 2010. Trước đó, để tăng từ 1 lên 5 triệu, ngành Du lịch đã phải mất tới 14 năm (từ năm 1994 đến năm 2010) mới đạt.

Đáng chú ý, thời gian qua, nhiều điểm du lịch mới được mở ra đã thu hút đông đảo du khách tham quan. Các điểm du lịch ở các tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc như Hà Giang đã tạo dựng được thương hiệu là điểm đến mới quyến rũ qua việc tổ chức Lễ hội hoa tam giác mạch; Yên Bái với lễ hội “Mùa vàng Mù Căng Chải”, tâm điểm là sự kiện “Bay trên Mùa vàng”; Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với hang Sơn Đoòng tạo sức hút lớn đối với du khách quốc tế và quan tâm của khách nội địa; Các điểm du lịch biển ở vùng Duyên hải Bắc Bộ, miền Trung, Nam Trung Bộ, Phú Quốc, Côn Đảo có nhiều đổi mới về quản lý và cung cấp dịch vụ, tạo sức hấp dẫn mới đối với khách du lịch trong nước và quốc tế…

Hạn chế và khó khăn

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành Du lịch Việt Nam vẫn còn gặp không ít khó khăn và thách thức. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát của du lịch Việt Nam quá thấp so với các nước trong khu vực.

Khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn hạn chế trước sự cạnh tranh gay gắt của du lịch trong khu vực và thế giới. Công tác quản lý môi trường tự nhiên và môi trường xã hội tại nhiều điểm du lịch còn yếu kém và chưa được coi trọng. Công tác quản lý điểm đến chưa được triển khai đồng bộ, hiệu quả.

Tình trạng mất vệ sinh, an ninh, trật tự tại các điểm du lịch vẫn thường xuyên xảy ra; taxi dù, hiện tượng chèo kéo, bán hàng rong, lừa đảo, ép khách du lịch vẫn thường xuyên diễn ra ở nhiều địa phương, nhất là vào mùa cao điểm…

Trong khi đó, nguồn tài nguyên du lịch còn chưa được thống kê, đánh giá, phân loại và xếp hạng để quản lý khai thác một cách bền vững, hiệu quả, dẫn tới tài nguyên du lịch thì nhiều, nhưng khai thác bừa bãi, mới dừng ở bề nổi, khai thác cái sẵn có chưa phát huy giá trị của tài nguyên.

Sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích… tác động tiêu cực tới phát triển du lịch bền vững.

Tính chuyên nghiệp khi xây dựng sản phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá cũng chưa được nâng cao. Sản phẩm du lịch Việt Nam vẫn chậm đổi mới, nghèo nàn, đơn điệu, thiếu đặc sắc, ít sáng tạo, còn trùng lặp giữa các vùng miền, giá trị gia tăng hàm chứa trong sản phẩm du lịch thấp, thiếu đồng bộ và thiếu liên kết trong phát triển sản phẩm.

Công tác xúc tiến quảng bá còn nhiều hạn chế, chưa chuyên nghiệp, chưa bài bản, chưa hiệu quả; mới dừng ở quảng bá hình ảnh chung, chưa tạo được tiếng vang và sức hấp dẫn đặc thù cho từng sản phẩm, thương hiệu du lịch. Kinh phí Nhà nước đầu tư còn hạn chế, chưa tạo được hiệu ứng kích cầu.

Hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng tiếp cận điểm đến còn thiếu đồng bộ. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch phát triển nhanh nhưng nhìn chung tầm cỡ quy mô, tính chất tiện nghi và phong cách sản phẩm du lịch nhỏ lẻ, vận hành chưa chuyên nghiệp, chưa hình thành được hệ thống các khu du lịch quốc gia với thương hiệu nổi bật. Nguồn nhân lực du lịch cũng là điểm yếu kém lớn của ngành Du lịch.

Ngoài ra, tình trạng các địa phương chọn ngành nào cũng là ngành “mũi nhọn” đã khiến mục tiêu phát triển chồng chéo, ảnh hưởng đến việc thực hiện, nhất là ngành Du lịch nghỉ dưỡng (vốn là Ngành coi trọng chất lượng môi trường) và ngành Công nghiệp nặng là Ngành có nguy cơ gây ô nhiễm cao.

Một số giải pháp đề xuất

Để phát huy những tiềm năng lợi thế, khắc phục những tồn tại hạn chế đang níu đà tăng trưởng của ngành Du lịch, thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.

– Cơ quan quản lý cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa huy động mọi thành phần kinh tế, nguồn lực đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; Cần quy hoạch sắp xếp và xây dựng các cơ sở dịch vụ: nhà nghỉ, y tế, ăn uống, vui chơi giải trí…; Quản lý chặt chẽ các loại dịch vụ, phí dịch vụ phục vụ du khách; Nâng cao ý thức phục vụ trong kinh doanh, tránh làm mất giá trị văn hóa truyền thống của người Việt.

– Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, nhất là các chuỗi liên kết và dịch vụ, đáp ứng các bộ tiêu chuẩn du lịch quốc tế, đi đôi với bảo tồn, phát triển, quảng bá hình ảnh và phát huy vai trò các vùng di tích lịch sử, các điểm đến và khu du lịch; Xây dựng hình ảnh và thương hiệu, nhận diện du lịch quốc gia có chiều sâu và tầm cao.

– Đẩy mạnh liên kết với các nước trong khu vực, khai thác triệt để tuyến hành lang Đông – Tây, hình thành các tour, tuyến du lịch chung như: Chương trình giữa Việt Nam – Campuchia – Lào, tuyến đường bộ 3 nước Việt Nam – Lào – Thái Lan để đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao sức hấp dẫn, thu hút khách từ các nước ASEAN và khách du lịch từ nước thứ ba vào ASEAN nối tour sang Việt Nam.

Thứ hai, xây dựng môi trường du lịch nhân văn, bền vững.

– Đẩy mạnh công tác truyền thông, định hướng, nâng cao nhận thức của xã hội, cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng phong trào ứng xử văn minh thân thiện với du khách, giữ gìn trật tự trị an, vệ sinh môi trường…

– Tăng cường quản lý bảo đảm về an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; Cung cấp thông tin về dịch vụ tại địa phương cho du khách qua internet và hệ thống các ấn phẩm quảng bá du lịch.

Thứ ba, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hài hòa các mục tiêu phát triển du lịch với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.

Chú trọng nâng cao năng lực cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn; Thực hiện quản lý theo quy hoạch gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả nước; quy hoạch phát triển du lịch theo các vùng, địa phương; quy hoạch các khu du lịch tổng hợp và khu du lịch chuyên đề, để tập trung thu hút đầu tư phát triển theo hướng bền vững.

Đồng thời, trước khi phát triển ngành, lĩnh vực khác, Nhà nước cần có những đánh giá tác động đối với ngành Du lịch để từ đó có sự lựa chọn ưu tiên phát triển ngành nào dựa trên tiềm năng, lợi thế của từng địa phương.

Thứ tư, đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực du lịch.

– Ngành du lịch cần sớm hoàn thiện hệ thống chính sách và các cơ chế quản lý về phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công tác phát triển nguồn nhân lực du lịch, bảo đảm thống nhất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.

– Các trường học và DN cần trang bị cho nhân lực du lịch những kiến thức về hội nhập, giỏi về ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ du lịch, am hiểu thị trường, luật pháp quốc tế…

Thứ năm, phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch.

– Tập trung thu hút có lựa chọn các phân đoạn thị trường khách du lịch; Phát triển mạnh thị trường du lịch nội địa, chú trọng phân đoạn khách nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nghỉ cuối tuần và mua sắm; Đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến từ Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương; Tây Âu; Bắc Âu; Bắc Mỹ và Đông Âu…

– Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp nhằm vào thị trường mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm; quảng bá du lịch gắn với quảng bá hình ảnh quốc gia, phù hợp với các mục tiêu đã xác định; gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao, văn hóa.

– Tập trung phát triển thương hiệu du lịch quốc gia trên cơ sở thương hiệu du lịch vùng, địa phương, DN và thương hiệu sản phẩm; chú trọng phát triển những thương hiệu có vị thế cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và địa phương để đảm bảo hiệu ứng thống nhất.

1. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; 2. Thủ tướng Chính phủ (2013), “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; 3. Tổng cục Du lịch (2016), Tình hình hoạt động của ngành Du lịch năm 2016 và triển khai nhiệm vụ trong năm 2017; 4. Tổng cục Thống kê (2016), Tình hình kinh tế – xã hội năm 2017.

Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Quảng Nam

Chương trình hành động nhằm đưa du lịch Quảng Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Ảnh: V.L

Cuối tuần qua, tại chúng tôi Kỳ Sở VH-TT&DL báo cáo trước UBND tỉnh Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 103 của Chính phủ (103/NQ/TW) và Nghị quyết 08 của Tỉnh ủy (08-NQ/TU) về phát triển du lịch Quảng Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2025. Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Thanh, để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngoài doanh nghiệp cần có sự tham gia của nhiều sở, ngành vì đây là ngành kinh tế đa ngành nghề; phải xây dựng được chính sách, cơ chế cụ thể; thay đổi cách thức truyền thông nhằm tăng cường quảng bá hình ảnh điểm đến…

Trong đó, cần xác định du lịch phải chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GRDP của tỉnh, tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại… Đặc biệt, rà soát, thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển và đường thủy nội địa phục vụ phát triển du lịch; xây dựng hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin kết nối tới các điểm đến; thúc đẩy mở các tuyến đường bay trong nước tại sân bay Chu Lai, tiến tới mở tuyến đường bay quốc tế sau năm 2020. “Dự báo thời gian tới sân bay quốc tế Đà Nẵng sẽ quá tải nên việc nâng cấp sân bay Chu Lai để đón đầu một lượng khách lớn đến Quảng Nam và miền Trung là điều chúng ta cần tính toán” – ông Tường gợi ý.

Một vấn đề cũng rất quan trọng chính là xây dựng và thực hiện Đề án cơ chế đặc thù bảo tồn, phát huy giá trị di sản (Hội An – Mỹ Sơn – Cù Lao Chàm – Nước Oa) theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, tập trung đầu tư Trường Trung cấp Văn hóa – nghệ thuật và du lịch Quảng Nam trở thành đơn vị trọng điểm đào tạo, bồi dưỡng lao động cho ngành du lịch tỉnh. Khuyến khích các trường, doanh nghiệp đào tạo, đào tạo lại lao động du lịch; tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch….

Từng bước hoàn thiện

Tại buổi góp ý, ông Võ Văn Vân – Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Quảng Nam cho rằng, một yếu tố quan trọng mà Chương trình hành động phát triển du lịch tỉnh không nhắc đến chính là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; cơ sở y tế đạt chuẩn và cơ sở vật chất cho người khuyết tật. Trong đó, việc đầu tư, nâng cấp Bệnh viện Đa khoa Hội An nhằm phục vụ người dân và du khách tham quan khi có sự cố xảy ra là điều cấp thiết. “Phần lớn du khách khi có vấn đề về sức khỏe chủ yếu đến Bệnh viện Thái Bình Dương hoặc ra Đà Nẵng do cơ sở hạ tầng, khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Hội An không đạt. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch Hội An mà bệnh viện cũng mất đi nguồn thu đáng kể từ hoạt động khám chữa bệnh của du khách” – ông Vân cho biết.

Thực Trạng Du Lịch Mice Ở Việt Nam Và Giải Pháp Phát Triển

Đa số khách đi du lịch MICE thường là các đoàn với số lượng đông, kéo theo đó mức chi tiêu cho các dịch vụ đi kèm cũng cao. Chính vì vậy lợi nhuận thu được từ khách du lịch MICE rất lớn. Có thể ước tính lợi nhuận từ loại hình du lịch này cao gấp 5 đến 6 lần so với du lịch thông thường.

Du lịch MICE đem lại nhiều lợi nhuận

Loại hình du lịch MICE yêu cầu cao về cơ sở lưu trú, địa điểm hội nghị, hội họp, vì vậy để gia tăng các điều kiện tổ chức MICE, cộng đồng chủ nhà phải xây dựng, bổ sung, nâng cấp hệ thống đường xá, khách sạn, trung tâm hội nghị…nhờ đó mà các cơ sở vật chất cũng được nâng cấp theo. Bên cạnh đó, du lịch MICE còn mở ra cơ hội quảng bá về đất nước, con người, tạo ấn tượng và thu hút khách du lịch.

Thực trạng phát triển du lịch MICE ở Việt Nam hiện nay

Có thể nói Việt Nam là một quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút khách MICE trong khu vực Đông Nam Á, bởi lẽ:

Cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nhiều kỳ quan thiên nhiên thế giới, nhiều Resort mới được xây dựng, đường bờ biển dài (3260 km) với nhiều bãi biển đẹp

Được mệnh danh là điểm đến an toàn, thân thiện với tình hình chính trị ổn định, sự hiếu khách của cư dân địa phương.

Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 7/12/2006 đã thổi bùng làn sóng đi lại, nghiên cứu thị trường, xúc tiến đầu tư…vào Việt Nam

Cảnh quan, chính trị bình ổn là lợi thế đối với du lịch MICE

Trong số thách thức Việt Nam gặp phải, điều đáng nói đầu tiên chính là cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng của Việt Nam chưa phát triển. Do khách MICE chủ yếu là khách hạng sang, nên đòi hỏi hạ tầng phải đồng bộ, chất lượng cao và lại phải phong phú và đa dạng. Thêm vào đó, các hoạt động thu hút khách MICE chủ yếu là tự phát, chưa có định hướng và hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.

Không chỉ vậy những hoạt động quảng bá còn nhỏ lẻ, chưa xứng tầm với tiềm năng. Đầu tư cho quảng bá còn quá ít dao động từ 2 đến 2,5 triệu USD/năm, trong khi đó so với các nước trong khu vực thì chi phí cho quảng bá cho du lịch của Việt Nam chỉ bằng 3% Thái Lan, 2,5% Singapore và 1,9% Malaysia. Do những nguyên nhân đó mà ngành du lịch Việt Nam rất khó cạnh tranh với các nước bạn.

Một trong những thách thức Việt Nam đang gặp phải nữa là nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch nói chung và MICE nói riêng còn thiếu và chưa đảm bảo chất lượng. Công tác đào tạo chưa được trú trọng, đội ngũ nhân viên phục vụ tại các nhà hàng, khách sạn, các trung tâm mua sắm… còn thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu tự đào tạo, chưa có hệ thống.

Giải pháp nào cho du lịch MICE tại Việt Nam

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Yếu tố con người luôn là điều cần phải quan tâm trước hết trong mọi vấn đề. Đối với du lịch MICE cũng vậy, để loại hình du lịch này phát triển, chúng ta cần chú trọng hơn việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch.

Có thể mở thêm nhiều khoa chuyên ngành hay những trung tâm đào tạo chuyên cho loại hình du lịch này. Tiếp theo là đảm bảo đầu ra cho người học đạt tiêu chuẩn theo đúng khung tiêu chuẩn nghề quốc tế VTOS. Bên cạnh đó cũng có thể tổ chức thêm các khóa đào tạo ngắn hạn để cải thiện cũng như nâng cao chuyên môn của đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực này.

Đặc biệt có thể thường xuyên tổ chức cho cán bộ, nhân viên học tập thực tế về du lịch MICE ở những nước dẫn đầu về công nghiệp MICE như Mỹ, Anh, Úc, Nhật Bản, Thái Lan…

Cải thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật

Đầu tiên, cần quy hoạch lại hệ thống đường bộ để giao thông thông thoáng hơn thuận tiện cho mọi hoạt động. Tiếp theo, cần mở thêm nhiều đường bay thẳng quốc tế để tạo sự thuận lợi cho các khách du lịch. Đặc biệt, không thể quên nâng cấp và mở thêm các khách sạn cũng như các trung tâm hội nghị có phòng ốc hiện địa, đầy đủ tiện nghi, sang trọng. Quy hoạch lại hệ thống đường đường bộ để giao thông thông thoáng, thuận tiện. Đảm bảo trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động của du khách và khiến họ cảm thấy thoải mái nhất có thể.

Du lịch MICE – khi đẳng cấp tạo nên sự khác biệt

Tăng cường quảng bá, xúc tiến

Đặc biệt, Việt Nam nên có một mạng lưới đại diện ở nước ngoài hoặc liên kết với các văn phòng ở nước ngoài để quảng bá. Thêm vào đó, cũng cần có trang web hấp dẫn cho phép các blog và giao tiếp qua các diễn đàn truyền thông xã hội như Twitter, Facebook, Youtube… Hơn nữa, các hoạt động quảng bá bằng hàng không phải được tăng cường và thu hút các hãng hàng không bay đến Việt Nam.

Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch, liên kết giữa ngành du lịch với chính quyền địa phương nhằm xây dựng thương hiệu phù hợp với nhiều yếu tố, từ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, cảnh quan đến các chương trình du lịch thu hút khách trong và ngoài nước.