PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm tới đây, Việt Nam chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Sự nghiệp đổi mới sẽ có bước phát triển mạnh hơn, nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam từ nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, thành một nước công nghiệp, có nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công – nông nghiệp – dịch vụ hợp lý, trong đó công nghiệp và dịch vụ ngày một chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân. Với đặc điểm là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, với hiệu quả nhiều mặt, lại được xác định có vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, nên ngành du lịch phải đẩy mạnh tốc độ phát triển nhanh hơn và bền vững. Để đạt được mục tiêu đề ra, một trong những nhiệm vụ trước mắt mà ngành du lịch phải thực hiện đó là kích thích việc đa dạng hóa các loại hình du lịch trong nước, đặc biệt là loại hình du lịch biển. Nhận thức được tiềm năng và tầm quan trọng của việc phát triển du lịch biển ở Việt Nam, bài viết này của em tập trung vào tìm hiểu, đánh giá và phân tích thực trạng để xác định những nguyên nhân chủ yếu làm cơ sở đề xuất một vài giải pháp phù hợp. Em chân thành cảm ơn thầy giáo – thạc sỹ Nguyễn Phi Lân và các bạn trong nhóm đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bản Đề án môn học này. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN. 1.1.1. Định nghĩa về Du lịch. Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế – chính trị thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp (định nghĩa của Khoa Quản trị Kinh doanh Du lịch và Khách sạn, Đại học Kinh tế Quốc dân). Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác, như định nghĩa của Micheal Coltman (Mỹ): “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền địa phương nơi đón khách du lịch”. Trong đó, khách du lịch là khách hàng rời khỏi nơi cư trú thường xuyên đi đến các nơi khác và quay trở lại nhằm thỏa mãn các mục đích khác nhau, trừ mục đích kiếm tiền; nhà cung ứng là các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cần thiết cho hoạt động du lịch; dân cư sở tại là những người dân ở tại địa phương diễn ra hoạt động du lịch; chính quyền địa phương là cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương tại điểm du lịch. 1.1.2. Các điều kiện để phát triển Du lịch. 1.1.2.1. Các điều kiện để phát triển cầu về du lịch (phát triển hoạt động đi du lịch). Thời gian rỗi: là khoảng thời gian mà con người tham gia vào các hoạt động xã hội, dành cho vực tự học nâng cao hiểu biết và hoạt động sáng tạo, thời gian để nghỉ ngơi tinh thần một cách tích cực,…Sự phân bổ thời gian rỗi hợp lý là điều kiện thực tế để tổ chức hoạt động đi du lịch và nghỉ ngơi của người lao động. Khả năng chi trả: là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu đi du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Do chi tiêu cho du lịch là chi tiêu trung hạn nên khi khả năng chi trả càng cao thì chi phí của cá nhân dành cho đi du lịch càng nhiều. Trình độ dân trí: nếu trình độ dân trí của người dân một quốc gia được nâng cao thì nhu cầu du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt. Mặt khác, nếu trình độ văn hóa chung của một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ đảm bảo làm hài lòng khách du lịch đến đó. Điều kiện phát triển giao thông vận tải: phải được đảm bảo về mức độ an toàn, mức độ tiện nghi, tốc độ và giá cả. Không khí chính trị trên thế giới hòa bình và ổn định. 1.1.2.2. Điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh du lịch (cung du lịch). Tình hình và xu hướng phát triển kinh tế. Tình hình chính trị hòa bình, ổn định của đất nước và các điều kiện an toàn với du khách. Điều kiện về tài nguyên du lịch: bao gồm tài nguyên nhân văn và tài nguyên tự nhiên. Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch Một số tình hình và sự kiện đặc biệt. 1.1.3. Các loại hình Du lịch. Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau và cơ bản có một số tiêu thức như sau: 1.1.3.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch: theo tiêu thức này du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa: Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau – khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.. Bản thân du lịch Quốc tế được phân thành: Du lịch Quốc tế chủ động: Là hình thức du lịch của những người ở nước ngoài đến một quốc gia nào đó và tiêu ngoại tệ ở đó. Du lịch Quốc tế thụ động: là hình thức du lịch của công dân một quốc gia nào đó và của những người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ quốc gia đó đi ra nước ngoài du lịch và trong chuyến đi đó họ đã tiêu tiến kiếm ra tai đất nước đang cư trú. Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch điểm xuất phát và điểm đến của du khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. 1.1.3.2. Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch: theo tiêu thức này du lịch được phân tành các loại sau: Du lịch chữa bệnh: ở loại hình này, khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Du lịch chữa bệnh lại phân thành: Chữa bệnh bằng khí hậu: khí hậu núi, khí hậu biển. Chữa bệnh bằng nước khoáng: tắm, uống nước khoáng; Chữa bệnh bằng bùn. Chữa bệnh bằng hoa quả. Chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt là sữa ngựa). Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: là loại hình du lịch có tác dụng làm giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng và giải thoát cho con người khỏi công việc hàng ngày. Du lịch thể thao: gồm du lịch thể thao chủ động, du lịch thể thao bị động. Du lịch thể thao chủ động: khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao. Du lịch thể thao chủ động bao gồm: Du lịch leo núi. Du lịch săn bắn; Du lịch câu cá; Du lịch tham gia các loại thể thao: đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ, trượt tuyết … Du lịch thể thao thụ động: là những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao quốc tế, các thế vận hội Olympic, … Du lịch văn hóa: nâng cao hiểu biết cho cá nhân về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội họa,…cùng phong tục, tập quán của đất nước du lịch. Du lịch văn hóa gồm 2 loại: Du lịch văn hóa với mục đích cụ thể: khách du dịch thuộc thể loại này thường đi với mục đích đã định sẵn. Thường họ là cán bộ khoa học, sinh viên và các chuyên gia. Du lịch văn hóa với mục đích tổng hợp: gồm đông đảo những người ham thích mở mang kiến thức về thế giới và thỏa mãn những tò mò của mình. Du lịch công vụ: nhằm thực hiện mục đích chính là thực hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Du lịch thương gia: mục đích chính là đi tìm hiểu thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, ký kết hợp đồng,.v.v. Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương Du lịch quá cảnh: nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một quốc gia nào đó trong một thời gian ngắn để đến một quốc gia khác. 1.1.3.3. Căn cứ vào đối tượng khách du lịch: Du lịch thanh thiếu niên; Du lịch dành cho những người cao tuổi; Du lịch dành cho phụ nữ, du lịch gia đình. 1.1.3.4. Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi Du lịch theo đoàn: các thành viên tham dự đi theo đoàn và thường có chuẩn bị chương trình du lịch từ trước, trong đó đã định ra những nơi sẽ đến thăm, nơi lưu trú và ăn uống. Du lịch theo đoàn có thể được tổ chức theo 2 hình thức sau: Du lịch theo đoàn có thông qua tổ chức du lịch: đoàn du lịch được các tổ chức trung gian (các doanh nghiệp lữ hành), các tổ chức vận tải (thường là các hãng hàng không), hoặc các tổ chức du lịch khác (khách sạn),…tổ chức cuộc hành trình. Các tổ chức đó chuẩn bị và thỏa thuân trước chuyến hành trình và lịch đi cho đoàn. Mỗi thành viên trong đoàn được thông báo trước chương trình của chuyến đi. Du lich theo đoàn không thông qua tổ chức du lịch: đoàn du lịch tự chọn chuyến hành trình, tự xác định thời gian đi, số ngày đi, những nơi sẽ đến thăm,…có thể đoàn đã được thỏa thuận trước hoặc tới nơi mới tìm cơ sở lưu trú, ăn uống,… Du lịch cá nhân: Du lịch cá nhân có thông qua tổ chức du lịch: cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của các tổ chức du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác. Khách du lịch không phải đi cùng đoàn mà chỉ tuân theo những điều kiện đã được thông báo và chuẩn bị trước. Du lịch cá nhân không thông qua tổ chức du lịch (đi tự do). 1.1.3.5. Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: Du lịch bằng xe đạp; Du lịch bằng xe máy; Du lịch bằng ôtô;… 1.1.3.6. Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: Du lịch ở khách sạn (Hotel); Du lịch ở khách sạn ven đường (Motel – khách sạn bên lề những chặng đường dài dành cho khách du lịch đi bằng ôtô); Du lịch ở lều trại (Camping); Du lịch ở làng du lịch (Tourism village). 1.1.3.7. Căn cứ vào thời gian du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân thành. Du lịch dài ngày; Du lịch ngắn ngày (thường gọi là du lịch cuối tuần – Weekend holiday). 1.1.3.8. Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân thành. Du lịch nghỉ núi; Du lịch nghỉ biển, sông, hồ; Du lịch thành phố; Du lịch đồng quê. 1.1.4. Du lịch biển và tài nguyên du lịch biển. Du lịch biển có thể hiểu là loại hình du lịch được phát triển ở khu vực ven biển nhằm phục vụ nhu cầu của khách du lịch về nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, khám phá, mạo hiểm,… trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch biển bao gồm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên du lịch biển: Tài nguyên tự nhiên: là các điều kiện về địa hình, mà cụ thể là cảnh quan thiên nhiên ven biển; quần thể sinh vật trên cạn, dưới nước như cây cỏ, tôm, cá,…; khí hậu (số ngày mưa, số giờ nắng trung bình, nhiệt độ trung bình của không khí vào ban ngày, nhiệt độ trung bình của nước biển, cường độ gió, hướng gió). Tài nguyên nhân văn: là tổng thể các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch biển như các viện bảo tàng hải dương học, các làng xã ven biển với nghề thủ công đặc trưng, các di tích đặc trưng của một triều đại hoặc một nền văn minh cổ xưa,… 1.2.TIỀM NĂNG DU LỊCH BIỂN CỦA VIỆT NAM. 1.2.1. Vị trí địa lý, dân cư, xã hội. Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược thuận lợi về biển. Lãnh thổ đất liền của Việt Nam được bao bọc bởi đường bờ biển Đông trải dài trên 3.200 km trên 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam. Trung bình cứ 100 km2 diện tích đất liền Việt Nam thì có 1 km bờ biển, tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ trung bình của thế giới (600 km2 mới có 1 km bờ biển). Vùng ven biển Việt Nam hiện gồm 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với diện tích tự nhiên là 140.413 km2, dân số 41,5 triệu bằng 41,5% diện tích và 53,4% dân số cả nước (theo số liệu điều tra năm 2000). Lãnh thổ Du lịch biển là nơi hội tụ của nhiều điểm thuận lợi và nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là du lịch bởi trên vùng lãnh thổ này hiện tập trung toàn bộ 6 di sản thế giới ở Việt Nam; phần lớn các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích lịch sử – văn hóa;.v.v. 1.2.2. Hệ thống tài nguyên du lịch biển (nguồn Tổng cục Du lịch). Vùng biển Việt Nam có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lơi cho phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch biển. Đặc điểm địa hình tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và hấp dẫn du trên dọc chiều dài 3.260 km bờ biển như Đèo Ngang, Đèo Cả, vịnh Nha Trang (được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới, nơi có khoảng 125 bãi cát lớn nhỏ khác nhau),.v.v.Trong số các bãi biển, có bãi biển dài tới 15 – 18 km với chất lượng tốt có giá trị hình thành các khu du lịch tầm cỡ quốc tế. Ở vùng nước ven bờ, nơi tập trung tới 2.773 hòn đảo, có nhiều đảo có giá trị du lịch như Quan Lạn, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc,.v.v.Đặc biệt vịnh Hạ Long là nơi tập trung 2.000 đảo đá vôi lớn nhỏ là hình thái địa hình karst ngập nước với cảnh quan thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn đã được UNESCO hai lần công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Vùng ven biển Việt Nam còn là nơi có nhiều hệ sinh thái điển hình, với tính đa dạng cao, trong đó có nhiều loại đặc hữu, quý hiếm. Những giá trị sinh thái tập trung chủ yếu ở hệ thống 13/28 vườn quốc gia; 22/55 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 2 khu bảo tồn biển là Hòn Mun (Khánh Hòa) và Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và 17/34 khu rừng văn hóa lịch sử và môi trường ở vùng ven biển và hải đảo ven bờ trong đó tiêu biểu là vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; rừng ngập mặn Cần Giờ là Khu dự trữ sinh quyển thế giới,.v.v. Bên cạnh giá trị tự nhiên, các yếu tố nhân văn giàu bẳn sắc văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm,.v.v.ở vùng ven biển cũng có ý nghĩa to lớn đối với phát triển du lịch biển. Hiện nay có tới 950/2509 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng quốc gia nằm ở vùng ven biển, đặc biệt trong số đó có 4 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận: Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và. Nhiều lễ hội dân gian truyền thống, tiêu biểu là lễ hội Nghinh Ông hay lễ cúng cá Ông (cá voi); nhiều làng nghề truyền thống;.v.v. là những giá trị văn hóa hấp dẫn khách du lịch. 1.2.3. Điều kiện kinh tế – xã hội phát triển Du lịch biển ở Việt Nam . 1.2.3.1. Hệ thống đô thị ven biển. Hệ thống đô thị Việt Nam tập trung chủ yếu ở ven biển với 43 đô thị từ cấp thị xã trở lên, trong đó có 1 đô thị đặc biệt (Thành phố Hồ Chí Minh); 3 đô thị loại 1 (bao gồm cả Thành phố Huế mới được công nhận năm 2004); 5 đô thị loại 2; 7 đô thị loại 3 và 27 thị xã (đô thị loại 4). Hệ thống đô thị có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổ chức hoạt động du lịch theo lãnh thổ, trong đó các đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 đều là các trung tâm vùng du lịch. Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống vùng ven biển hiện nay sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của du lịch biển. 1.2.3.2. Cơ sở hạ tầng du lịch biển. Đường bộ: Hệ thống giao thông đường bộ, đặc biệt là tuyến quốc lộ xuyên Việt (quốc lộ 1A) được nâng cấp cùng việc xây dựng quốc lộ 10, tạo điều kiện gắn kết các địa phương vùng ven biển trong phát triển kinh tế – xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Một số đường quốc lộ như quốc lộ 18, quốc lộ 51B, .v.v. đã được nâng cấp tạo gắn kết hoạt động du lịch của 2 Trung tâm quan trọng nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với du lịch biển. Từ các đô thị, cảng biển, hệ thống quốc lộ Đông Tây, nối liền vùng ven biển Việt Nam với những lãnh thổ phía Tây đất nước và xa hơn với các nước trong khu vực, góp phần vào sự phát triển của du lịch biển. Đường sắt: Quan trọng nhất và có ý nghĩa du lịch là tuyến đường sắt Thống Nhất Bắc – Nam từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tuyến đường này sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển của du lịch biển khi nó được hòa vào hệ thống đường sắt xuyên Á. Đường biển: Trên chiều dài 3.260 km bờ biển từ mũi Ngọc (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), hiện có 73 cảng biển lớn nhỏ, phần lớn tập trung ở miền Trung và Đông Nam Bộ, trong đó có một số cảng biển đã đón tàu du lịch Columbus, Europa (Đức), Arion (Autralia),… cập bến như Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Quốc. Hiện có nhiều tuyến đường biển trong nước và quốc tế đang hoạt động như tuyến Hải Phòng – Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng – Đà Nẵng; Thành phố Hồ Chí Minh – Rạch Giá…và các tuyến quốc gia như Thành phố Hồ Chí Minh – Vladivostoc, Hồng Kông, Singapore, Băng Cốc; Hải Phòng đi Hồng Kông, Manila, Tôkyô,… Đường hàng không: Cả nước hiện nay có khoảng 14/18 sân bay, trong đó có 2/3 sân bay quốc tế đang được khai thác ở vùng ven biển, đó là: Cát Bi (Hải Phòng); Vinh (Nghệ An); Đà Nẵng; Phù Cát (Bình Định); Tuy Hòa (Phú Yên); Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa); Vũng Tàu, Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tầu); Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh); Cà Mau (Cà Mau); Rạch Giá, Phú Quốc (Kiên Giang). Trong số các sân bay trên có nhiều máy bay mới được nâng cấp và mở rộng như sân bay Phú Bài, Côn Đảo, Phú Quốc,.v.v.góp phần quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch biển phát triển. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1995-2004. 2.1.1. Nhóm chỉ tiêu về khách du lịch. 2.1.2.1. Khách du lịch quốc tế. Vùng ven biển hàng năm thu hút trên 73% số lượt khách du lịch quốc tế đến các địa phương tăng trưởng với tốc độ trung bình khoảng 15,2%/năm. Năm 1997 số lượng khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển đạt 2.127 ngàn, năm 2000 là 3.299 ngàn và đến năm 2002 các tỉnh ven biển đã đón gần 5,3 triệu lượt khách quốc tế. Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS, lượng khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển có hơi giảm so với năm 2002, tuy nhiên năm 2004 lại tăng trở lại cùng với việc tăng số lượng khách quốc tế đến Việt Nam (Bảng 1). Số liệu trên thống kê ở phạm vi toàn vùng ven biển Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2004 cho thấy số lượt khách du lịch quốc tế đến các khu vực trọng điểm du lịch vùng ven biển tăng nhanh với tốc độ bình quân khoảng 12,6%/năm. Riêng khu vực Quảng Ninh – Hải Phòng và Huế – Đà Nẵng có tốc độ tăng khá cao (trên 41%/năm ); tiếp đến là Nha Trang – Khánh Hòa (2,5%/năm), Bà Rịa – Vũng Tàu (12,6%/năm). Khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển Việt Nam phân bố không đồng đều theo lãnh thổ. Có 4 khu vực thu hút khách nhiều nhất đó là: Tp Hồ Chí Minh, Vũng Tàu (hơn 40% tổng lượng khách quốc tế đến vùng ven biển), Quảng Ninh – Hải Phòng (trên 25%); Huế – Đà Nẵng (12%) và Nha Trang – Khánh Hòa (xấp xỉ 4%). Bốn khu vực trọng điểm này đã thu hút tới 80% tổng số khách quốc tế đến nghỉ ngơi tham quan trong toàn vùng ven biển. Đây là những khu vực có những đô thị lớn với điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tương đối tốt, đồng thời là những nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch có giá trị. Khách du lịch Việt Nam và vũng ven biển ngày càng tăng và hiện đang chiếm tỷ lệ cao nhất (27% tổng số khách quốc tế), sau đó là Việt kiều, khách Mỹ (12%), Nhật Bản (>6%). Khách du lịch đường biển chủ yếu từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và một số nước Tây Âu tăng nhanh trong thời gian qua. Năm 1993 mới có 18.414 khách (chiếm 3,07% thị phần) đến năm 2001 đã tăng lên 284.612 khách (chiếm 12,2% thị phần khách khách quốc tế; và khoảng 1- 2% thị phần thu nhập), tốc độ tăng bình quân 40,5%/năm. Bảng 1: Số lượt khách du lịch quốc tế đến các tỉnh ven biển giai đoạn 1995 – 2004 Đơn vị: 1.000 lượt Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số lượt khách 1.865 2.208 2.127 1.973 2.246 3.299 4.092 5.299 4.720 5.960 Tỷ lệ đến vùng Bắc Bộ(%) 10,97 9,46 10,44 12,22 14,83 21,37 20,59 21,37 23,40 22,56 Tỷ lệ đến vùng Bắc Trung Bộ (%) 11,67 11,85 11,46 11,28 10,84 12,20 13,66 14,21 16,75 17,21 Tỷ lệ đến vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ (%) 50,15 56,10 51,66 48,09 45,71 39,93 39,56 38,17 32,10 34,15 Tỷ lệ so với cả nước (%) 72,79 77,41 73,56 71,59 71,38 73,50 73,81 73,75 72,25 73,92 Nguồn: Tổng cục Du lịch, Viện NCPT Du lịch 2.1.2.2. Khách du lịch nội địa. Vùng ven biển Việt Nam là nơi luôn thu hút tới trên 50% số lượt khách du lịch nội địa đi lại giữa các vùng trong cả nước với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1995 – 2004 là 12,5%/năm. Năm 1997 toàn vùng đón 5.742 ngàn lượt khách; năm 2000 đón được 7.465 ngàn lượt khách; và năm 2002 đạt 1
Top 13 # Xem Nhiều Nhất Loại Hình Du Lịch Phát Triển Ở Việt Nam Mới Nhất 6/2023 # Top Like
Tổng hợp danh sách các bài hay về chủ đề Loại Hình Du Lịch Phát Triển Ở Việt Nam xem nhiều nhất, được cập nhật nội dung mới nhất trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng thông tin trong các bài viết này sẽ đáp ứng được nhu cầu mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật lại nội dung Loại Hình Du Lịch Phát Triển Ở Việt Nam nhằm giúp bạn nhận được thông tin mới nhanh chóng và chính xác nhất.
Phát Triển Loại Hình Du Lịch Ẩm Thực Tại Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU1.Tính cấp thiết của đề tàiAi cũng biết rằng: Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Có ý kiến cho rằng: “Chính tạo hóa giúp con người kiếm thức ăn, nuôi sống họ lại còn cho họ nếm mùi khoái lạc với các món ăn ngon.” Đó là một niềm hạnh phúc lớn lao của con người, là phần thưởng của tạo hóa dành cho con người. Mỗi dân tộc trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của mình đều có phong cách ẩm thực với những đặc thù nhất định, nên đã có người nhận xét: Có thể đoán biết được phần chính yếu của số phận một dân tộc thông qua việc quan sát họ ăn như thế nào?Đối với cá nhân riêng lẻ cũng vậy, “Hãy cho tôi biết anh thường xuyên thích ăn món gì, tôi sẽ có thêm cứ luận để nói rõ cho anh biết anh là người thế nào.” Đã có một vài nhận xét thú vị được rút ra như sau– Ăn chính là nghệ thuật: “Chúng ta dựa vào trí tuệ mẫn tiệp, tình cảm đẹp đẽ để xây dựng cuộc sống có chất lượng cao, ngày một hoàn thiện vì vậy cần phải biết chọn thức ăn ngon – một biểu hiện của chất lượng cuộc sống”. Rõ ràng là biết chọn
thức ăn ngon, phù hợp với mình là cả một nghệ thuật– Ăn là biểu hiện văn hóa ứng xử: “Ăn uống thô tục là không biết ăn.”Cha ông ta dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” là rất ý nhị. Có người còn cho rằng khi ăn cũng phải giữ phong độ uy vũ, mạnh mẽ, chân tình nhưng tránh thô lậu. “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu” là muốn nhấn mạnh ý người nam ăn phải khỏe, tư 1thế vẫn tỏ rõ nam tính, còn nữ nhi trái lại phải ăn uống dịu dàng, làm dáng, thể hiện cả nữ tính yểu điệu như mèo cả trong khi ăn.– Ăn chính là thực hiện niềm vui sáng tạo: “Phát hiện một món ăn mới phải thấy là vui sướng như phát hiện ra một ngôi sao mới”. Tạo ra món ăn mới là một phát minh – nếu suy nghĩ được như vậy thì ẩm thực mới phát triển và thực ra nó cũng là một trong những nguồn cảm hứng vô tận cho những ai yêu nó, để tâm sức vào nghiên cứu nó.Cuối cùng, thiết nghĩ khi chuẩn bị món ăn, người đầu bếp phải sắp xếp sao cho nguyên liệu vừa đủ với số lượng khách; nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt sạch sẽ. Nấu món ăn nào trước, món ăn nào sau phải hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui vẻ, hứng khởi. Khi dọn ăn, nên chú ý lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì càng làm cho các món ăn ngon thêm bội phần. Văn hóa ẩm thực ngày được đông đảo công chúng và các chuyên gia văn hóa chú ý không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước. Chính vì vậy ,văn hóa ẩm thực cũng được coi như một tài nguyên du lịch,thu hút với những đối tượng khách muốn tìm hiểu về văn hoá ẩm thực của một quốc gia,vùng miền.Khoảng chục năm trước,trên thế giới đã xuất hiện loại hình du lịch ẩm thực.Tuy nhiên đến nay,du lịch ẩm thực vẫn còn là khái niệm khá mới lạ ở Việt Nam.Đó thực sự là một sự lãng phí nguồn tài nguyên phát triển du lịch.Vì vậy,tôi viết về đề tài này với mong muốn có thể nghiên cứu sâu hơn về các điều kiện phát triển loại hình du lịch ẩm thực tại Việt Nam,từ đó đề ra một vài giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch này tại Việt Nam trong thời gian tới2. Mục tiêu,nhiệm vụ nghiên cứuMục tiêuPhát triển loại hình du lịch ẩm thực tại Việt Nam trong thời gian tớiNhiệm vụ Chỉ ra tiềm năng phát triển loại hình du lịch ẩm thực tại Việt Nam Đánh giá mức độ phát triển của loại hình du lịch ẩm thực tại Việt Nam hiện nay2 Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch ẩm thực tại Việt Nam trong thời gian tới3.Đối tượng nghiên cứuLoại hình du lịch ẩm thực4.Phạm vi nghiên cứu
Tình Hình Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU Thời gian này, thế giới đang ghi nhận nhiều bước tiến đáng kể của ngành du lịch, nhất là du lịch sinh thái và bảo tồn do những quan ngại ngày càng lớn về vấn đề môi trường. Du lịch sinh thái không còn chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm mà đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở rất nhiều nước trên thế giới, vấn đề phát triển du lịch sinh thái rất được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng cáo thương mại công cộng. Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Venezuela, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, nhờ đó họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Ecuador sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galápagó để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đã thiết lập một số vùng Thiên nhiên-và-Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Tại Úc vµ Newzeland, phần lớn các hoạt động du lịch đều có thể xếp vào hạng du lịch sinh thái. Ðây là ngành công nghiệp được xếp hạng cao trong nền kinh tế của cả hai nước. Tại Việt Nam, du lịch cũng đang dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong tương lai gần, hoạt động du lịch được coi như là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Du lịch Việt Nam được các công ty du lịch hàng đầu thế giới đánh giá cao, do nước ta có nhiều tiềm năng về nguồn lực du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, du lịch sinh thái ở Việt Nam những năm gần đây cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh những tiềm năng và triển vọng, không thể không kể đến những thách thức to lớn đang chờ đón ngành dịch vụ môi trường non trẻ này, đòi hỏi một nỗ lực tổng thể của cả chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Vì vậy, em chọn đề tài “Tình hình phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu thêm về ngành dịch vụ tiềm năng này, cũng như các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái có liên quan. Do điều kiện có hạn, em chỉ giới hạn nội dung đề tài của mình trong hai lĩnh vực: Tiềm năng, thực trạng du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn quốc gia Tiềm năng, thực trạng du lịch biển Việt Nam. Bên cạnh đó, em cũng xin đưa ra một số giải pháp và chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I.1. Khái quát về du lịch sinh thái Vấn đề vẫn còn tồn tại mỗi khi thảo luận về du lịch sinh thái là việc khái niệm về du lịch sinh thái vẫn chưa được tìm hiểu kỹ, do đó thường bị nhầm lẫn với các loại hình phát triển du lịch khác. Một số tổ chức đã rất cố gắng làm rõ sự nhầm lẫn này bằng cách sử dụng khái niệm du lịch sinh thái như một công cụ thực hiện bảo tồn và phát triển bền vững. Ðịnh nghĩa của Hiệp hội Du lịch Sinh thái được phổ biến rộng rãi như sau: “Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm tại các điểm tự nhiên, kết hợp với bảo vệ môi trường và cải thiện phúc lợi của người dân địa phương” (Lindberg và Hawkins, 1993). Một định nghĩa đang thịnh hành khác đã liên kết các yếu tố văn hoá và môi trường một cách cụ thể hơn là định nghĩa do Tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra. Ðịnh nghĩa này cho rằng “du lịch sinh thái là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hoá đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra, và tạo ra ích lợi cho những người dân địa phương tham gia tích cực” (Ceballos-Lascuráin, 1996). Mặc dù khái niệm du lịch sinh thái vẫn thường được sử dụng tương tự như khái niệm du lịch bền vững, song trên thực tế, du lịch sinh thái nằm trong lĩnh vực lớn hơn cả du lịch bền vững. Du lịch bền vững bao gồm tất cả các loại hình của du lịch (dù là loại hình dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay tài nguyên do con người tạo ra). Do đó, du lịch sinh thái cần được hiểu là một trong những phạm trù của du lịch bền vững. Không nên coi du lịch sinh thái là ngành du lịch “dựa vào thiên nhiên” vì cái mác này có thể sử dụng trong tất cả các hoạt động du lịch được thực hiện ngoài thiên nhiên (ví dụ trượt tuyết, đi xe đạp leo núi, và bám vách đá leo núi). Những hoạt động du lịch này có thể có mà cũng có thể không thuộc loại hoạt động thân thiện với môi trường. Do đó, du lịch sinh thái chỉ nên được sử dụng để mô tả những hoạt động du lịch trong môi trường thiên nhiên với một đặc điểm đi kèm: là loại hình du lịch thực sự khuyến khích bảo vệ và giúp xã hội phát triển bền vững. Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ: Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên Bảo đảm với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên về các đặc điểm mà họ đang chiêm ngưỡng Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch. Từ những năm 1985 – 1990, đặc biệt là sau năm 1990, khoa học sinh thái được chấp nhận khá rộng rãi trên thế giới và cũng từ đó, khoa học sinh thái trở thành một lĩnh vực khoa học có giá trị hơn nên nhiều ngành kinh tế – xã hội có ý thức vận dụng những lý thuyết cơ bản của sinh thái học. Từ sau cuộc hội nghị về Trái đất ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992, ngành du lịch thế giới đã thực sự vận dụng sinh thái học dưới nhiều mục tiêu phát triển bền vững. Với Việt Nam – một nước mới phát triển về du lịch và loại hình du lịch sinh thái hầu như còn rất mới, thì kinh nghiệm quản lý và điều hành loại hình này chưa có nhiều. Vấn đề đặt ra mang tính cấp bách là cần phải quan tâm đến cả hai phương diện: Một là: thống nhất về bản chất và khái niệm của loại hình du lịch sinh thái Hai là: Tiếp cận với xu thế và nhu cầu thị trường du lịch sinh thái trong nước và quốc tế, tiến hành xây dựng những định hướng và hoạch định chiến lược phát triển cho loại hình du lịch sinh thái ở Việt Nam. I.2. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agricultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology). Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural-based tourism), chỉ có thể phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên, điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc trang trại điển hình. Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở hai điểm: Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hóa cộng đồng địa phương. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất. Khi đó, người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là người phiên dịch giỏi. Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinht hái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hóa khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách. Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tối đa các tác động có thể có của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường. Theo đó, du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm. Do khái niệm sức chứa bao gồm cả mặt định tính và định lượng, khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau, các chỉ số này có thể được xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm. I.3. Tính tất yếu phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002 lượng khách quốc tế tăng 10,5 lần, khách nội địa tăng 13 lần. Thu nhập xã hội cũng tăng đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mã … các khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha- Kẻ Bàng, Hồ Kẻ Gỗ… bình quân mỗi năm tăng 50% khách nội địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%. Vì vậy hiện nay phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du lịch sinh thái phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày một tăng của du khách và của cộng đồng. Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không ngừng của xã hội, đảm bảo về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh thái, với tư cách là một ngành kinh tế. Việt Nam là đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó tạo nên một nền nhiệt độ cao, không khí ẩm, mưa nhiều. Việt Nam lại có đường bờ biển dài hơn 3000km, lưng dựa vào dãy Trường Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho nước ta một hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp với rất nhiều nét văn hóa dân tộc đặc sắc, đậm đà, nếu được khai thác hiệu quả, du lịch sinh thái chắc chắn sẽ là một ngành hứa hẹn, không chỉ về mặt kinh tế mà cả xã hội và môi trường. CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM II.1. Những điều kiện để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam Việt Nam là quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. 3/4 diện tích đất nước bao phủ bởi các dãy núi, đồi và các cao nguyên. Bờ biển Việt Nam trải dài trên 3200 km. Việt Nam là nơi cư trú của 12000 loài thực vật, 7000 loài động vật trong số đó có rất nhiều loài được liệt vào Sách Đỏ của thế giới. Đặc biệt, trong những năm 80 của thế kỉ trước, đã có 5 loài động vật dạng lớn đã được phát hiện ở Việt Nam. Do điều kiện địa lý như vậy nên Việt Nam rất thích hợp để phát triển du lịch sinh thái. ViÖt Nam cã 350 loµi san h”, trong ®ã cã 95 loµi ë vïng biÓn phÝa B¾c vµ 225 loµi ë vïng biÓn phÝa Nam. Bªn c¹nh 60 v¹n ha ®Êt c¸t ven biÓn, trong ®ã cã 77.000 ha hÖ sinh th¸i c¸t ®á tËp trung t¹i B×nh ThuËn, Ninh ThuËn vµ c¸c tØnh duyªn h¶i Trung bé, ViÖt Nam cßn cã thªm 10 triÖu ha ®Êt ngËp mÆn Èn chøa nhiÒu hÖ sinh th¸i ®iÓn h×nh cã gi¸ trÞ cao vÒ khoa häc vµ du lÞch t¹i §ång Th¸p Mêi. HÖ thèng rõng ®Æc dông vµ rõng ngËp mÆn ViÖt Nam thuéc lo¹i rõng giµu cã vÒ tÝnh ®a d¹ng sinh häc víi 12.000 loµi thùc vËt (1.200 loµi ®Æc h÷u), 15.575 loµi ®éng vËt (172 loµi ®Æc h÷u). NÕu nh n¨m 1994 míi chØ cã 320 ngµn lît kh¸ch quèc tÕ ®Õn c¸c vïng tù nhiªn ë ViÖt Nam th× ®Õn n¨m 1999 con sè t¬ng øng ®· lªn ®Õn 620 ngµn vµ dù tÝnh 1triÖu lît kh¸ch cho c¶ n¨m 2000. Bªn c¹nh ®ã hµng n¨m còng cã thªm 3.5 ®Õn 5 triÖu lît kh¸ch du lÞch néi ®Þa ghÐ c¸c vïng tù nhiªn. Nhê vËy doanh thu cña ho¹t ®éng du lÞch sinh th¸i t¹i c¸c khu b¶o tån thiªn nhiªn còng nh vïng ®Öm hiÖn chiÕm kho¶ng 25-30% trong tæng sè doanh thu hµng n¨m cña ngµnh du lÞch. HiÖn nay ngµnh du lÞch ViÖt Nam ®ang gÊp rót hoµn thiÖn c”ng t¸c ®iÒu tra c¬ b¶n quy ho¹ch nh÷ng vïng tiÒm n¨ng nh Ba BÓ, C¸t Bµ, Cóc Ph¬ng, Nam C¸t Tiªn, Yok-§”n, C”n §¶o, B×nh Ch©u-Phíc Böu… Tæ chøc kh”ng gian ho¹t ®éng du lÞch sinh th¸i trong c¸c khu b¶o tån ë ViÖt Nam sÏ ®îc ph©n thµnh 7 côm vïng tiªu biÓu. Kh”ng gian du lÞch sinh th¸i vïng nói vµ ven biÓn §”ng B¾c bao gåm mét phÇn c¸c tØnh L¹ng S¬n, Cao B”ng, B¾c C¹n, B¾c Th¸i. C¸c hÖ sinh th¸i ®iÓn h×nh vµ cã gi¸ trÞ cao ®îc chän khu vùc nµy lµ khu b¶o tån thiªn nhiªn B¾c S¬n, H÷u Liªn ( L¹ng S¬n), rõng v¨n ho¸ lÞch sö P¾c Bã, Trïng Kh¸nh( Cao B”ng), Vên quèc gia Ba BÓ ( B¾c C¹n). Hå nói Cèc( B¾c Th¸i) vµ hÖ sinh th¸i rõng ngËp mÆn Qu¶ng Ninh, H¶i Phßng. Kh”ng gian ho¹t ®éng cña du lÞch sinh th¸i vïng nói T©y B¾c vµ Hoµng Liªn S¬n chñ yÕu phÇn phÝa T©y cña 2 tØnh Lµo Cai vµ Lai Ch©u víi vïng sinh th¸i nói cao Sapa-Phanxiph¨ng vµ Khu b¶o tån Mêng NhÐ- n¬i ®ang tån t¹i 38 loµi ®éng vËt quý hiÕm cÇn ®îc b¶o vÖ nh Voi, Bß tãt, GÊu chã, Hæ, Sãi ®á… Du lÞch sinh th¸i §ång B”ng S”ng Hång víi kh”ng gian chñ yÕu thuéc c¸c tØnh Hµ T©y, VÜnh Phóc, Hµ Nam, Nam §Þnh, Th¸i B×nh vµ Thanh Ho¸. C¸c khu b¶o tån thiªn nhiªn ®iÓn h×nh ®îc chän cho vïng nµy lµ Tam §¶o, Cóc Ph¬ng, Ba V×, Xu©n Thuû (khu b¶o vÖ vïng ®Êt ngËp níc (Ramsa) ®Çu tiªn ë ViÖt Nam) Kh”ng gian du lÞch sinh th¸i vïng B¾c Trung Bé bao gåm phÇn phÝa T©y Nam NghÖ An, Hµ TÜnh, Qu¶ng B×nh, Qu¶ng Nam, §µ N½ng vµ phÝa §”ng Nam Thõa Thiªn HuÕ. So víi c¸c níc trong khu vùc §”ng Nam ¸, ®©y lµ ®Þa bµn ®îc ®¸nh gi¸ cao nhÊt vÒ tÝnh ®a d¹ng sinh häc víi Khu b¶o tån thiªn nhiªn Phong Nha-KÎ Bµng ®îc xÕp vµo lo¹i lín trªn thÕ giíi vµ nhiÒu khu rõng nguyªn sinh cã gi¸ trÞ PhÝa T©y cña T©y Nguyªn, mét phÇn B¾c L©m §ång kÐo dµi ®Õn tØnh Kh¸nh Hoµ thuéc kh”ng gian du lÞch sinh th¸i vïng Nam Trung Bé vµ T©y Nguyªn. c¸c hÖ sinh th¸i ®iÓn h×nh cña vïng nay bao gåm rõng khu rõng ë Yok ®”n, ®Êt ngËp níc Hå L¾c, hÖ sinh th¸i Ngäc Linh, Biodup-Nói Bµ; hÖ sinh th¸i san h” Nha Trang. Vïng chuyÓn tiÕp tõ cao nguyªn T©y Nguyªn cùc Nam Trung Bé víi kh”ng gian du lÞch sinh th¸i bao trïm khu vùc Vên quèc gia Nam C¸t Tiªn (L©m §ång-B×nh D¬ng, §ång Nai), C”n §¶o, B×nh Ch©u-Phíc Böu( Bµ RÞa-Vòng Tµu), BiÓn L¹c-Nói ¤ng( B×nh ThuËn) Dùa vµo hai hÖ sinh th¸i lµ ®Êt ngËp mÆn vµ rõng ngËp mÆn thuéc c¸c tØnh däc s”ng Mª K”ng ®Õn B¹c Liªu, Cµ Mau, Kiªn Giang, kh”ng gian du lÞch vïng nµy sÏ tËp trung chñ yÕu vµo rõng ngËp mÆn Cµ Mau, Trµm chim §ång Th¸p, Cï lao s”ng TiÒn, s”ng HËu vµ Khu b¶o tån thiªn nhiªn Phó Quèc. II.2. Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam II.2.1: Tiềm năng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam nằm trong vùng châu Á, nơi được tổ chức du lịch thế giới và nhiều nhà chuyên môn du lịch có tên tuổi dự báo sẽ là nơi thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất và cũng có nhiều người đủ điều kiện đi du lịch nhất (khoảng 500 triệu người) vào thế kỷ XXI. Những phân tích, đánh giá, dự báo đó cho ta một kết luận: nguồn khách du lịch sinh thái quốc tế gắn với thị trường du lịch Việt Nam là khách quan và là một tiềm năng. Theo đánh giá của quốc tế, nước ta đứng thứ 16 về sự phong phú, tính đa dạng sinh học, đại diện cho vùng Đông Nam Á về sự độc đáo và giàu có thành pphần loài. Mặc dù bị tổn thất về diện tích do nhiều nguyên nhân trong hai thập kỷ qua, hệ thực vật vẫn còn khá phong phú về chủng loại. Tiềm năng và thế mạnh về sự đa dạng sinh thái của Việt Nam hấp dẫn du lịch ở các đặc trưng sinh thái dưới đây: Các vùng núi đã vôi với nhiều dạng hang động như là một kho tàng cảnh quan thiên nhiên huyền bí mà trong đó vịnh Hạ Long hay Phong Nha – Kẻ Bàng là những ví dụ tiêu biểu. Nhiều đảo, vịnh và bãi tắm đẹp với các sinh thái động thực vật biển phong phú, đa dạng. Hệ thống vườn bảo tồn thiên nhiên đa dạng và phong phú về hệ động thực vật rừng xen kẽ với nhiều dân tộc có người sinh sống với những bản sắc văn hóa hết sức đa dạng. Các vùng sinh thái nông nghiệp đặc trưng nền văn minh lúa nước với nhiều sông lạch, miệt vườn. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch sinh thái. Các nhà sinh thái học thường nhắc đến sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái và thực bì ở Việt Nam. Theo thống kê, Việt Nam có tới 26 kiểu thực bì tập trung thành 6 nhóm, trài từ rừng kín thường xanh, rừng rụng lá và bán rụng lá, rừng thường xanh hở, rừng thường xanh cây bụi đến các thảm cỏ. Ngoài ra, Việt Nam còn có 5 nhóm hệ sinh thái thủy vực, trải từ nước ngọt đứng, nước ngọt chảy, nước ngọt ngầm, nước lợ và nước mặn. Hệ sinh thái ngập nước cũng đang được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu. Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy, vườn Quốc gia Tràm Chim ở đồng bằng sông Cửu Long là những địa điểm ngắm chim lý tưởng. Sự phong phú về hệ sinh thái ở Việt Nam sở dĩ có được là nhờ sự đa dạng về địa hình của đất nước. Sự đa dạng về địa hình kết hợp với sự phong phú về hệ sinh thái đã cho ra đời những sản phẩm, địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Hấp dẫn nhất phải kể đến rừng mưa nhiệt đới, vườn quốc gia Cúc Phương, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã và khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha – Kẻ Bàng, Hoàng Liên Sơn. Nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phân bố dọc theo 3260km bờ biển với hệ động thực vật còn khá phong phú và nhiều bãi tắm lý tưởng như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Xuân Thủy, Sầm Sơn, Lăng Cô, Bình Châu, Phước Bửu. Các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên vùng đảo và quần đảo cũng là những địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng. Nơi đầy, ngoài hệ sinh thái trên cạn còn có hệ sinh thái trên biển với các rạn san hô có thành phần loài phong phú. Chúng ta có thể tổ chức du lịch lặn , xem hệ động thực vật biển phong phú trong các rạn san hô ở khu vực đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc, và các đảo thuộc khu vực Nha Trang, Khánh Hòa. II.2.2: Thực trạng các khu du lịch sinh thái ở Việt Nam Tuy có tiềm năng to lớn, du lịch sinh thái trong phạm vi cả nước nói chung và trong các khu bảo tồn nói riêng vẫn còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Các hoạt động đa số mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và đối tượng phục vụ rõ ràng, chưa có sự đầu tư quảng bá, nghiên cứu thị trường và công nghệ phục vụ cho du lịch sinh thái, chưa có sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của các cấp ngành có liên quan, do vậy, thực tế là sự đa dạng sinh học đang bị đe dọa. Theo ước tính, ở Việt Nam có hơn 10% các loại động vật có vú, chim và cá dang mắc các bệnh đặc trưng, 28% thuộc động vật có vú, 10% loài chim và 21% loài động vật lưỡng cư và loài bò sát được liệt kê là ở trong tình trạng hết sức nguy hiểm. Một nguyên nhân to lớn là môi trường sống đang bị mất đi do nạn phá rừng. Các dấu hiệu của việc khai thác các sản phẩm của rừng ngày một nhiều và không phải là không khó nhận ra ở Việt Nam. Một ví du cho thấy việc buôn bán thịt thú rừng phát triển mạnh. Giá chim là 550.000đ/kg, lợn rừng 40.000đ/kg. Rất nhiều quán ăn đặc sản với món thịt hổ ở Đắc Lắc. Những thú vật nhồi bông cũng có sẵn để bán ở các cửa hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với giá không hề đắt: hổ nhồi bông 15 triệu đồng, gấu trúc 10 triệu đồng, gấu mặt trời 8.5 triệu đồng… Về lĩnh vực văn hóa, đang có những dấu hiệu tích cực trong việc bảo tồn các di sản văn hóa của nước ta, đặc biệt là nhờ du lịch. Cụ thể như sự phát triển du lịch tại Huế những năm gần đây đã và đang làm sống lại những ngành nghề đã một thời bị lãng quên như may, thêu, đúc đồng, chạm khắc và đặc biệt là nghệ thuật ca Huế truyền thống, ca múa cung đình… Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, không thể phủ nhận những tác động tiêu cực mà du lịch đem lại cho công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa nói riêng và nếp sống văn hóa nói chung. Cụ thể như: – Đối với các di sản vật thể, đặc biệt là các di sản có giá trị toàn cầu nổi bật thì sự bùng nổ số lượng khách tham quan đã và đang trở thành nguy cơ đe dọa việc bảo vệ các di sản này, nhất là khi kỹ năng quản lý và công nghệ bảo vệ của ta chưa cao. – Sự phát triển các dịch vụ du lịch thiếu sự kiểm soát và sự bùng nổ số lượng văn hóa còn tác động mạnh mẽ đến cảnh quan văn hóa và môi trường sinh thái tại các khu du lịch như: khắc tên lên các vách đá, các bộ phận di tích, xả rác bừa bãi… – Du lịch tạo nên sự tiếp xúc giữa các bộ phận dân cư xuất thân từ các nền văn hóa khác nhau, tín ngưỡng khác nhau. Do không được thông tin đầy đủ và thiếu những quy định chặt chẽ, nhiều du khách đã ăn mặc, cư xử tùy tiện ở những nơi được coi là trang nghiêm, đặc biệt là những di tích có ý nghĩa tôn giáo, tín ngưỡng của dân sở tại, gây nên sự bất hòa thậm chí là xung đột về mặt tâm lý và tinh thần. Về thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn, cũng có nhiều điều đáng nói. Trong số 11 vườn quốc gia thì Cúc Phương, Bạch Mã, Cát Tiên đã tổ chức hoạt động du lịch sinh thái khá hơn. Cụ thể 3 vườn này đã xây dựng được một số tuyến du lịch sinh thái, một số tuyến đường mòn thiên nhiên, một số hướng dẫn viên là kiểm lâm được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du lịch sinh thái. Các vườn còn lại cũng tổ chức hoạt động tham quan du lịch nhưng chưa có bài bản và định hướng rõ ràng. Căn cứ vào các tiêu chí của du lịch sinh thái, ta có thể nhận thấy rằng: Mặc dù đã có những tuyến du lịch mang tính chất du lịch sinh thái nhưng trên thực tế chỉ là du lịch thiên nhiên hay du lịch liên quan đến thiên nhiên. Hoạt động giáo dục, diễn giải môi trường – một yếu tố rất cơ bản để phân biệt du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác chưa được triển khai nhiều, chưa được quan tâm đúng mức và thiếu nhân lực am hiểu về lĩnh vực này. Cụ thể là trên các tuyến tham quan, đường mòn thiên nhiên còn thiếu biển chỉ dẫn, biển báo, chưa kể tình trạng sử dụng ngoại ngữ sai tràn lan ở rất nhiều biển chỉ dẫn, thậm chí ở các thành phố lớn như Hà Nội hay TPHCM. Bên cạnh đó, hầu hết các hướng dẫn viên mới chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường mà chưa có đủ kiến thức để thực hiện nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu nhất của mình là giáo dục và diễn giải môi trường. Lợi ích từ hoạt động du lịch còn ít, chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác bảo tồn và phát triển cộng đồng địa phương. Nhân dân địa phương cũng chưa được thu hút nhiều vào hoạt động du lịch của vườn. II.2.3: Nguyên nhân của thực trạng Nguyên nhân vì sao du lịch sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng thì khá nhiều, song nhìn chung có thể đưa ra một vài nguyên nhân chính. Sự ít hiểu biết về khái niệm du lịch sinh thái là một hạn chế không nhỏ cho việc phát triển du lịch sinh thái. Du lịch sinh sinh thái là một loại hình du lịch khá mới mẻ cả về khái niệm, tổ chức oạt động, quy hoạch, chính sách đầu tư khai thác. Vấn đề phổ cập kiến thức du lịch sinh thái chưa được các ngành quan tâm đầu tư đúng mức. Một nguyên nhân quan trọng nữa là do lực lượng quản lý tại các khu vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên thiếu cả về số lượng lẫn kiến thức chuyên môn. Mặc dù du lịch là một trong những chức năng, nhiệm vụ của vườn quốc gia, song thực tế các vườn mới chỉ chú trọgn đến bảo vệ rừng mà chưa quan tâm tới việc quản lý rừng bền vững và phát triển du lịch sinh thái. Các khu bảo tồn thiên nhiên còn thiếu những phương tiện cung cấp các thông tin giáo dục, diễn giải môi trường và chưa có những hướng dẫn viên du lịch sinh thái chuyên nghiệp, am hiểu đầy đủ, tường tận các tài nguyên du lịch của chính mình. Các điểm du lịch sinh thái chưa được quy hoạch là một trở ngại lớn cho việc phát triển của ngành du lịch này tại Việt Nam. Hầu hết các khu bảo tồn thiên nhiên chưa có phân vùng dành cho du lịch sinh thái. Sự thiếu tiếp thị quảng cáo cho du lịch sinh thái cũng là một nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam. Thiếu tiếp thị, quảng cáo, tuyên truyền dẫn đến thiếu nhu cầu trong thị trường. Điều này lại dẫn đến sự thiếu động lực thúc đẩy các cơ quan chức trách có thẩm quyền và các nhà đầu tư quan tâm đến việc ưu tiên đầu tư cho bảo tồn và du lịch sinh thái. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là sự yếu kém của cơ sở hạ tầng phụ vụ du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng. Song nhìn chung, nguyên nhân quan trọng nhất gây trở ngại cho việc phát triển du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên lại là thiếu sự phối kết hợp giữa các cơ quan, các ngành, các cấp có liên quan trong việc xây dựng các chính sách phát triển và quy hoạch du lịch. Du lịch sinh thái là ngành có liên quan đến nhiều lĩnh vực, cần phải có sự kết hợp của nhiều ngành liên quan mới có thể phát triển được. II.3: Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái biển – đảo của Việt Nam II.3.1: Tiềm năng du lịch sinh thái biển – đảo của Việt Nam Dọc theo chiều dài hơn 3231 km vùng biển ven bờ của Việt Nam, thống kê được 2779 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 1295 đảo không tên, hơn 50 đảo có dân sinh sống thường xuyên, tài tuyên sinh vật thống kê được trên khoảng 10 đảo, như vậy còn tới 95.5% là đảo hoang. Hệ thống đảo ở vùng biển ven bờ Việt Nam phân bố không đều. Khu vực tập trung nhiều đảo nhất là Vịnh Bắc Bộ (cực Nam Trung Bộ, Đông và Tây Nam Bộ chỉ chiếm 7% tổng số đảo). Tuy nhiên, tổng diện tích các đảo ở hai khu vực này lại gần giống nhau với 787,4 km2 khu vực Bắc Bộ và 679,3 km2 khu vực ven bờ Nam Bộ. Căn cứ vào đặc điểm phân bố các hòn đảo, tồn tại 3 hệ sinh thái đặc trưng: Hệ sinh thái quần đảo với nhiều vũng, vịnh nhỏ xen kẽ nhau tạo thành cảnh quan và môi trường sinh thái rất đặc biệt và đa dạng. Đặc trưng nhất là hệ thống quần đảo phía Tây Bắc vịnh Bắc Bộ. Hệ sinh thái ở một hoặc hai đảo độc lập, hoặc cách nhau tương đối xa. Tính chất sinh thái và khu hệ sinh vật trên đảo và vùng nước xung quanh các đảo của hệ sinh thái này tương đối thuần nhất, tính đa dạng sinh học không cao. Đại diện cho hệ sinh thái này là các đảo Bạch Long Vĩ, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Ré, Cù Lao Khoai, Hòn Tre… Hệ sinh thái vùng quần đảo nhỏ, bao gồm một đảo lớn và một số đảo nhỏ xung quanh. Điển hình cho dạng này là Cát Bà, Cù Lao Chàm, Côn Đảo, Thổ Chu, Phú Quốc… Đặc trưng của các hệ sinh thái này là vừa mang tính chất của hệ sinh thái đảo độc lập, vừa mang tính chất của hệ sinh thái quần đảo. Các đảo và vùng nước quanh đảo là nơi bảo tồn, phát triển nguồn gen tự nhiên rất phong phú và lưu giữ những nguồn gen quý hiếm của khu hệ sinh vật Việt Nam. Bước đầu đã phát hiện được 8 loài quý hiếm và 1 loài đặc hữu trên cụm đảo Cát Bà, 3 loài quý hiếm trên Cù Lao Chàm, 4 loài quý hiếm và một loài đặc hữu trên cụm đảo Côn Đảo – Ba Cạnh, bổ sung vào danh mục cá biển Việt Nam 113 loài cá san hô mới được phát hiện tại các đảo ven bờ. Vùng biển quanh hệ thống đảo ven bờ Việt Nam là nơi dừng chân thuận lợi cho các loài động vật di cư từ Bắc xuống Nam và ngược lại. Đặc tính này làm cho khu hệ động vật trên đảo và dưới nước thêm phong phú, đa dạng. Đến nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ về nguồn gen trong hệ sinh thái biển đảo quanh 2779 hòn đảo, tuy nhiên kết quả nghiên cứu ở một số cụm đảo cho thấy: trên các đảo hiện có khoảng 997 loài thực vật thuộc 587 chi, 156 họ, 5 ngành; khoảng 63 loài thú thuộc 24 họ, 8 bộ; khoảng 194 loài chim thuộc 50 họ, 20 bộ; khoảng 73 loài bò sát thuộc 18 họ, 3 bộ; khoảng 15 loài lưỡng cư thuộc 4 họ, 1 bộ; tương ứng với 28.3% loài thú, 23.7% loài chim, 29.1% loài bò sát và 18.8% loài lưỡng cư đã thống kê trong toàn quốc. Trong vùng biển Việt Nam, hiện đã phát hiện được 537 loài thuộc 4 ngành thực vật phù du (phytoplankton), động vật phù du (zooplankton) có 657 loài thuộc 7 ngành, động vật đáy có khoảng 6000 loài cỡ lớn, cá biển có 2038 loài thuộc 717 giống, 198 họ, 32 bộ; bò sát có 21 loài; động vật có vú sống dưới nước có 12 loài thuộc 10 giống, 4 họ thuộc 2 bộ cá Voi (Cetacea) và cá Cúi (Sitenia). Khu hệ động thực vật trên các đảo lớn và quần đảo phong phú hơn trên các đảo nhỏ và biệt lập. Các hệ sinh thái biển đảo hiện đang là nơi tiềm ẩn nguồn tài nguyên quý và đa dạng có giá trị trước mắt và lâu dài để phát triển kinh tế biển, đặc biệt có giá trị cao đối với hoạt động phát triển du lịch sinh thái. Việt Nam là quốc gia ven biển, có vị trí địa lý – chính trị quan trọng trong giao lưu quốc tế. Vì vậy, phát triển du lịch biển có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, đồng thời tạo cơ hội phát triển mới, làm tăng nguồn thu quốc gia và cải thiện cán cân thanh toán, góp phần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế biển, đa dạng hóa nền kinh tế cho suốt dọc vùng duyên hải và hải đảo của 29 tỉnh, thành phố, thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, du lịch biển có vai trò đặc thù và chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định 7 khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch, trong đó có tới 5 khu vực thuộc vùng ven biển. Mặc dù cho đến nay, nhiều tiềm năng du lịch biển đặc sắc, đặc biệt là hệ thống đảo ven bờ chưa được đầu tư khai thác một cách tương xứng thì khu vực ven biển cũng đã tập trung khoảng 70% các khu điểm du lịch trong cả nước, hàng năm thu hút khoảng 60-80% lượng khách du lịch. Điều này khẳng định vai trò của du lịch biển đối với sự phát triển chung của du lịch Việt Nam. Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, du lịch biển Việt Nam đã biến chuyển ngày một mạnh mẽ với những bước tiến quan trọng cả về lượng và chất. Đã có sự phát triển đáng kể về sản phẩm du lịch. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho du lịch được cải thiện một bước. Hoạt động du lịch biển chiếm tỉ trọng lớn (năm 2000 chiếm 63% GDP du lịch của cả nước), đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn ngành du lịch Việt Nam và kinh tế – xã hội vùng biển. II.3.2: Thực trạng du lịch sinh thái biển – đảo ở Việt Nam. Đáng chú ý nhất phải nói đến sự xuống cấp về chất lượng môi trường biển. Môi trường ven biển và vùng ven biển trực tiếp chịu ảnh hưởng tác động của các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt ở những khu vực có hoạt động công nghiệp, cảng biển, phát triển đô thị tập trung, các vùng cửa sông – nơi các chất thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt ở vùng thượng lưu theo các dòng sông đổ ra biển. Đây chính là những nguồn gây ô nhiễm làm xuống cấp chất lượng môi trường, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển bền vững. Các kết quả khảo sát môi trường tại các khu vực trọng điểm phát triển du lịch vùng ven biển cho thấy: Tại nhiều khu vực như vùng biển ven bờ cửa Lục (Quảng Ninh), cảng Thuận An (Thừa Thiên Huế), cảng Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, dọc tuyến hàng hải Hải Phòng – Đà Nẵng…, chỉ số ô nhiễm dầu trong nước đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép, trong một số trường hợp tới 0.2 – 0.3 mg/lít. Hàm lượng kim loại nặng ở nhiều khu vực cũng vượt quá giới hạn cho phép. Ví dụ như hàm lượng đồng ở khu vực Hạ Long, vùng cửa Nam Triệu và quanh bán đảo Đồ Sơn phổ biến trong khoảng 0.080 – 0.086mg/lít, khu vực Huế, Đà Nẵng trong khoảng 0.076 – 0.081mg/lít, vượt quá giới hạn cho phép là 0.02mg/lít. Hàm lượng vật chất lơ lửng do các hoạt động công nghiệp, khai thác than đặc biệt nổi cộm ở Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng… Tại Hạ Long, dưới tác động của các hoạt động khai thác than, môi trường không khí tại nhiều điểm vượt quá xa chỉ tiêu cho phép về nồng độ bụi. Bên cạnh đó là tình trạng xói lở đường bờ biển. Nhiều khu du lịch ở miền Trung, điển hình là khu du lịch Thuận An (Thừa Thiên Huế), khu du lịch Phan Thiết – Mũi Né (Bình Thuận) và một số đảo ven bờ như Phú Quốc… đã và đang chịu ảnh hưởng của tình trạng này. Cá biệt, khu du lịch Thuận An, bãi biển đã bị sạt lở nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hoạt động tắm biển và xây dựng các công trình du lịch. Tình trạng suy giảm rừng ven biển và trên các đảo: trong tình trạng đáng lo ngại chung về suy giảm rừng, ở khu vực ven biển và hải đảo ven bờ Việt Nam, tài nguyên sinh vật trong những năm gần đây cũng giảm sút đáng kể, kéo theo đó là sự suy giảm về tính đa dạng sinh học. Trong xu thế đó, nhiều hệ sinh thái có giá trị du lịch như hệ sinh thái san hô, cỏ biển, hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái đầm phá, hệ sinh thái biển đảo… đều bị ảnh hưởng. Có thể khẳng định rằng: môi trường du lịch vùng biển và ven biển Việt Nam đang có những dấu hiệu đáng lo ngại, đặc biệt ở các khu vực trọng điểm du lịch như Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn, Huế – Đà Nẵng, Vũng Tàu…, ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam. II.3.3: Nguyên nhân của thực trạng Chưa có cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về môi trường trong ngành du lịch, vì vậy công tác quản lý khai thác và bảo tồn tài nguyên, môi trường du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng, gặp nhiều khó khăn, mới chỉ thực hiện ở mức độ nghiên cứu, đề xuất giải pháp chung. Bên cạnh đó, ta chưa xây dựng và ban hành chính thức hướng dẫn về đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cho hoạt động du lịch, mặc dù trong năm 1999, Viện nghiên cứu phát triển du lịch đã phối hợp với Trung tâm khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc Gia soạn thảo sách “Hướng dẫn ĐTM cho dự án phát triển du lịch”. Chưa có hệ thống kiểm soát quản lý các vấn đề về môi trường liên quan đến các hoạt động du lịch, vì vậy thiếu các hoạt động tích cực nhằm hạn chế sự suy thoái tài nguyên và môi trường du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng. Quan hệ liên ngành trong quản lý môi trường, đặc biệt giữa ngành Du lịch với Bộ Tài nguyên và Môi trường còn thiếu chặt chẽ, vì vậy ảnh hưởng đến công tác quản lý môi trường biển cho hoạt động phát triển du lịch ở khu vực này. Du lịch Việt Nam, vì vậy, đang phải đối mặt trực tiếp với quá trình suy thoái môi trường chung và môi trường biển, nhất là ở các vùng trọng điểm phát triển du lịch ở ven biển và hải đảo. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH SINH THÁI TẠI VIỆT NAM III.1. Phát triển du lịch sinh thái cả về lượng và chất trên cơ sở phát triển bền vững Phát triển du lịch sinh thái phải hướng tới và đạt được sự phát triển bền vững của chính loại hình du lịch sinh thái và phải trở thành nhân tố tích cực đảm bảo phục vụ cho phát triển du lịch bền vững. Những giải pháp cần thiết để phát triển du lịch sinh thái ở nước ta là cần có những văn bản pháp quy tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch sinh thái có cơ hội phát triển, đồng thời nên có những cơ chế, chính sách ưu đãi dành riêng cho du lịch sinh thái, đồng thời cần có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý và du lịch với các bộ, ngành, địa phương để quản lý có hiệu quả. Cụ thể là: Thứ nhất, giáo dục – đào tạo và tuyên truyền về du lịch sinh thái: Đối tượng giáo dục bao gồm: các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên, các hướng dẫn viên, các nhà hoạch định chính sách liên quan đến bảo tồn và du lịch, cộng đồng địa phương, khách du lịch trong và ngoài nước. Bằng cách tuyên truyền, giáo dục, các vấn đề khúc mắc khác có thể dễ dàng tháo gỡ. Chẳng hạn như giáo dục tuyên truyền với các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý khu bảo tồn thiên nhiên có thể làm họ quan tâm hơn đến việc quy hoạch cho du lịch sinh thái. Thứ hai, kết hợp sự tham gia của cộng đồng địa phương: Giáo dục cộng đồng phải đi đôi với hỗ trợ, phát triển cộng đồng và phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng địa phương. Không có lý gì nếu ta vận động họ không phá rừng làm rẫy trong khi họ lại dựa vào hoạt động này để sinh nhai. Sự thật này dẫn đến một giải pháp khác cho vấn đề phát triển du lịch sinh thái là vấn đề tạo việc làm, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp và ngành nghề cho dân địa phương, đặc biệt là một số ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống. Thứ ba, quy hoạch tổng thể các điểm, khu du lịch sinh thái: Các khu bảo tồn thiên nhiên nên có những quy hoạch, chỉ rõ phân vùng cho du lịch sinh thái nếu có. Cần phải có bản đồ du lịch sinh thái cho các khu bảo tồn thiên nhiên nơi có tiến hành du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, nên có hệ thống thu lệ phí vào cổng và các lệ phí khác như phí thuê dụng cụ, phí sử dụng bến bãi… Nên đặt mục tiêu rõ ràng cho việc thu lệ phí: cần thu lệ phí để bù đắp chi phí du lịch của địa điểm, để tăng tối đa lợi nhuận hay một mục đích nào khác, từ đó mới xác định mức lệ phí phù hợp. Thứ tư, tiếp thị du lịch sinh thái cho các khu bảo tồn thiên nhiên: Dù có những sản phẩm tốt nhất mà không được đối tượng nó phục vụ biết đến thì cũng không thể bán được sản phẩm đó. Đây là một nguyên tắc của marketing mà ngành du lịch cũng không ngoại lệ. Tiềm năng là vậy nhưng nếu không tiếp thị quảng cáo du lịch sinh thái thì không ai có thể biết Việt Nam có những địa điểm du lịch sinh thái lý tưởng. Thứ năm, phát triển cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là những hấp dẫn thứ cấp bổ sung cho các hấp dẫn chính cấp là tài nguyên thiên nhiên của các khu bảo tồn thiên nhiên. Song cần lưu ý, các phương tiện phục vụ này phải đảm bảo hợp môi trường và không nên chà đạp lên văn hóa địa phương, nhờ đó tranh thủ sự ủng hộ của người dân địa phương với các hoạt động và dịch vụ du lịch. Các ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm: Thiết kế và xây dựng nơi ăn nghỉ cho khách theo kiểu nhà nghỉ sinh thái Xây dựng các tuyến đường nội bộ, đường mòn thiên nhiên với hệ thống chỉ dẫn, chỉ báo đầy đủ, chính xác. Xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường. III.2: Các chiến lược du lịch sinh thái quốc gia Để có ngành du lịch sinh thái phát triển bền vững, cần phải có một chiến lược du lịch sinh thái quốc gia được xây dựng với sự tham gia đầy đủ của các thành phần có liên quan. Để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam, một số dự án nghiên cứu, đào tạo, quy hoạch du lịch sinh thái đã được triển khai: Nghiên cứu quy hoạch thí điểm về du lịch thiên nhiên và du lịch mạo hiểm ở Việt Nam – Phân hội các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam cùng các nhà tư vấn du lịch New Zealand (1995). Điều tra vẽ bản đồ du lịch sinh thái và tổ chức lớp tập huấn về du lịch sinh thái cho một số vườn quốc gia – các chuyên gia của Hội các Vườn quốc gia Nhật Bản. Phân hội Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam chủ trì. Dự án phát triển Vườn quốc gia Bạch Mã Việt Nam 00.12.01 – WWF/EC đã soạn thảo “Kế hoạch quản lý khu du lịch sinh thái VQG Bạch Mã”, quỹ Quốc tế bảo tồn thiên nhiên tiến hành trong 2 năm 1995 – 1996. Các khóa tập huấn về du lịch sinh thái cho cán bộ và nhân viên Vườn quốc gia Tam Đảo, Cúc Phương, Bạch Mã, do các chuyên gia của Hội các VQG Nhật Bản, Phân hội VQG và khu Bảo tồn thiên nhiên Việt Nam chủ trì. Dự án xây dựng năng lực phục vụ các sáng kiến về du lịch bền vững, do IUCN và Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch thực hiện (1997). Cơ sở khoa học phát triển du lịch sinh thái Việt Nam, Viện nghiên cứu phát triển du lịch thực hiện (1998 – 1999). Dự án bảo tồn VQG Cúc Phương, FFI thực hiện (1997 – 2000). Nếu các dự án trên được thực thi có hiệu quả thì chắc chắn các vấn đề khó khăn trong các chiến lược phát triển du lịch sinh thái phần nào sẽ được giả quyết, đưa du lịch sinh thái phát triển theo đúng hướng của những nguyên tắc đã nêu trên. PHẦN KẾT LUẬN Trách nhiệm, quyền lợi cũng như nghĩa vụ trong phát triển du lịch sinh thái và môi trường có mối quan hệ hỗ tương hết sức mật thiết. Đầu tư du lịch chính là kích thích phát triển kinh tế, đem lại nguồn ngoại tệ đồng thời giải quyết việc làm cho nhiều lao động tại địa phương nhưng du lịch kết hợp được với môi trường sinh thái thì đem lại rất nhiều nguồn lợi. Đơn cử như vấn đề bảo vệ môi trường rừng thiên nhiên, rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng quốc gia, bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật rừng, giúp việc nghiên cứu khoa học; Bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, …Vì rừng đặc dụng có một vai trò quan trọng như vậy, do đó vấn đề bảo vệ tốt môi trường tại các khu rừng đặc dụng sẽ góp phần không nhỏ vào việc duy trì và phát triển hệ sinh thái rừng, nguồn gen thực vật, động vật rừng và phục vụ nghiên cứu khoa học. Vai trò của du lịch sinh thái được xét đến như một mắt xích với cơ cấu phát triển bền vững, vừa phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội theo xu hướng chung của thế giới vừa đảm bảo mục tiêu bảo tồn các hệ sinh thái. Hệ sinh thái đã đề cập đến như một chu trình khép kín, hài hòa chịu sự tác động giữa các môi trường sinh cảnh khác nhau, duy trì các hệ thống trợ giúp cuộc sống (đất, nước, không khí và cây xanh), bảo vệ sự đa dạng sinh học và ổn định quần thể của các loài sinh vật và các hệ sinh thái. Yêu cầu này đòi hỏi các hoạt động du lịch và cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật phải được thiết kế, tổ chức phù hợp với điều kiện cho phép (giới hạn) đảm bảo môi trường. Điều kiện của môi trường có thay đổi theo thời gian và không gian, do vậy các hoạt động du lịch sinh thái phát triển phải phù hợp theo điều kiện môi trường môi trường ở mỗi vùng khác nhau. Thông qua quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch được ban hành có đưa ra rất nhiều quy định cụ thể mà các văn bản pháp luật trước đây chưa đề cập. Việc ban hành văn bản pháp luật này có ý nghĩa rất to lớn, vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước, vừa tạo ra một không khí thoải mái đối với du khách, đồng thời hạn chế được những tác nhân gây hại cho môi trường thiên nhiên. Thiết nghĩ, nước ta cần tập trung đầu tư đúng nghĩa, phát triển điểm du lịch sinh thái ở các khu vực vùng ven ngoại vi và trong quy hoạch phát triển đô thị cũng nên có một tỷ lệ nhất định dành cho phát triển khu du lịch sinh thái, nhằm đáp ứng song song tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa như hiện nay của cả nước, đẩy mạnh hơn nữa những chính sách thiết thực nhất để vực dậy ngành công nghiệp không khói này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường, NXB Thống Kê, Hà Nội, 2009. Thế Đạt, Du lịch và du lịch sinh thái, NXB Lao Động Hà Nội, 2003 Hội khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp, Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1995. Phạm Trung Lương, Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà nội, 2002. Tạp chí Du lịch Việt Nam các số 4, 5, 9, 10, 11, 12/2004 Tạp chí Tài nguyên và Môi trường 6/2004 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 I.1. Khái quát về du lịch sinh thái 3 I.2. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 4 I.3. Tính tất yếu phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam 6 CHƯƠNG II: THỰC TẾ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM 7 II.1. Điều kiện để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam 7 II.2. Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam 9 II.2.1. Tiềm năng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên 9 II.2.2. Thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên 10 II.2.3. Nguyên nhân của thực trạng 12 II.3. Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái biển – đảo của Việt Nam 13 II.3.1. Tiềm năng du lịch sinh thái biển – đảo 13 II.3.2. Thực trạng du lịch sinh thái biển – đảo 16 II.3.3. Nguyên nhân của thực trạng 17 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM 19 III.1. Phát triển du lịch sinh thái cả về lượng và chất trên cơ sở phát triển bền vững 19 III.2. Các chiến lược du lịch sinh thái quốc gia 21 PHẦN KẾT LUẬN 22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 MỤC LỤC 25
6. Các Loại Hình Du Lịch Biển Ở Việt Nam?
Với tư cách là một trong 5 lĩnh vực kinh tế biển quan trọng được xác định tại Nghị quyết số 09-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, du lịch và kinh tế đảo ngày càng khẳng định vị trí của mình đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và đối với bản thân sự phát triển ngành du lịch nói riêng.
Du lịch biển phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội dải ven biển, nơi hiện có khoảng 21,2 triệu người trong độ tuổi lao động và góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường biển.
Ở Việt Nam du lịch biển có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định 7 khu vực trọng điểm ưu nên phát triển du lịch, trong số đó đã có tới 5 khu vực thuộc vùng ven biển. Mặc dù cho đến nay, nhiều tiềm năng du lịch biển đặc sắc, đặc biệt là hệ thống đảo ven bờ, chưa được đầu tư khai thác tương xứng, nhưng ở khu vực ven biển đã phát triển khoảng 70% các khu điểm du lịch trong cả nước, hàng năm thu hút từ 70 – 80% lượng khách du lịch. Thu nhập từ hoạt động du lịch biển chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập du lịch cả nước. Điều này đã khẳng định vai trò của du lịch biển đối với sự phát triển chung của du lịch Việt Nam.
Căn cứ vào đặc điểm địa lý lãnh thổ nơi diễn ra hoạt động du lịch, có thể được chia thành du lịch biển, du lịch núi, du lịch cao nguyên,… Du lịch biển là hoạt động du lịch được tổ chức phát triển trên lãnh thổ vùng ven biển và vùng biển ven bờ (bao gồm cả các đảo ven bờ) và vì vậy hoạt động phát triển du lịch biển chủ yếu dựa vào đặc điểm tự nhiên và tiềm năng du lịch của lãnh thổ địa lý này. Biển, vùng ven biển và hải đảo nước ta đa dạng về cảnh quan thiên nhiên, giàu có về đa dạng sinh học và các hệ sinh thái cho nên các loại hình du lịch cũng khá phong phú và đa dạng. Bao gồm du lịch ngắm xem (bằng du thuyền và lặn), du ngoạn, nghỉ dưỡng, tắm biển, văn hóa biển, khoa học biển, du lịch hang động, du lịch sinh thái gắn với các khu bảo tồn biển, đảo; du lịch thể thao biển (còn chưa phát triển nhiều) và các loại hình du lịch picnic,…
Theo “100 câu hỏi – đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam” (Nxb Thông tin và Truyền thông – 2013)
Bạn đang đọc các thông tin trong chủ đề Loại Hình Du Lịch Phát Triển Ở Việt Nam trên website Tuvanduhocsing.com. Hy vọng những nội dung mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích đối với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!