Những năm gần đây, Việt Nam ngày càng coi trọng phát triển du lịch bền vững, dựa trên các tài nguyên du lịch phong phú. Đồng thời, nhiều biện pháp có hiệu quả được thực hiện để thúc đẩy phát triển ngành du lịch trở thành một ngành trụ cột của nền kinh tế quốc gia. Xây dựng thương hiệu du lịch văn hóa trở thành mục tiêu mang tính chiến lược dài hạn trong phát triển du lịch tại Việt Nam.
Nói về tài nguyên thiên nhiên thì Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Đường biên giới đất liền giáp với Trung Quốc là 1.281km, với Lào 2.130km và với Campuchia 1.229km; đường bờ biển dài 3444km thông ra Vịnh Bắc Bộ, Biển Đông và Vịnh Thái Lan. Diện tích hơn 331,212km 2, với ¾ là đồi núi được chia thành bốn vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trường Sơn và Nam Trường Sơn.
Các dãy núi cao là nguyên nhân chính hình thành vùng cao nguyên khí hậu ôn đới. Những hang động, thác nước và khu nghỉ dưỡng đã thúc đẩy sự phát triển du lịch của nhiều địa phương. Có hai vùng đồng bằng chính là Sông Hồng và Sông Cửu Long với đất đai mầu mỡ, khí hậu ôn hòa, được mệnh danh là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam. Địa hình của Việt Nam được chia thành ba phần: Bắc, Trung, Nam.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, miền Nam có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô; miền Bắc có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông; miền Trung có khí hậu gió mùa nhiệt đới điển hình. Việt Nam có 125 bãi biển rất đẹp, có lợi cho sự phát triển du lịch. Các bãi biển đẹp từ Bắc vào Nam có thể kể đến như: Trà Cổ, Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc, … Và điều giá trị nhất để nhắc đến là trong năm 1994 và 2000, Vịnh Hạ Long hai lần được UNESCO vinh danh là Di sản thiên nhiên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam còn có rất nhiều nguồn tài nguyên rừng, khoáng sản và thủy sản.
Nguồn tài nguyên nhân văn, Việt Nam với hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang đã khai sinh ra nền văn hóa mang bản sắc dân tộc lâu đời và huy hoàng. Cho dù đó là thời chiến hay hòa bình, nhân dân Việt Nam vẫn luôn luôn duy trì một thái độ nghiêm túc, tinh thần làm việc chăm chỉ và ý chí mạnh mẽ. Mặc dù diện tích đất không lớn, nhưng từ Nam chí Bắc đều có sự phân bố 54 dân tộc với thói quen sinh hoạt khác nhau đã trở thành nguồn tài nguyên mang nhiều ưu thế cho để phát triển du lịch văn hóa. Tính đến tháng 8 năm 2014, Việt Nam có 40.000 di sản và danh lam thắng cảnh, trong đó có 3.000 địa danh liệt vào hàng di sản cấp quốc gia, 5000 di sản cấp tỉnh, chủ yếu ở 11 tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng, chiếm 70% tổng số di sản và danh lanh thắng cảnh trên toàn quốc.
Quần thể di tích Cố đô Huế luôn là điểm đến không thể thiếu của du khách trong và ngoài nước mối khi đến Huế
Các di sản quốc gia nổi tiếng bao gồm: quần thể di di sản Cố đô Huế, sườn phía bắc của hang động, dinh độc lập, hoàng thành Thăng Long, ATK Định Hóa Thái Nguyên, quần thể di tích chiến thắng Điện Biên Phủ, khu di tích khởi nghĩa Yên Thế, thánh địa Mỹ Sơn, tam cố bích động Tràng An, văn miếu Quốc Tử Giám, vương quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Đền Hùng, cố đô Hoa Lư, khu di tích Kim Liên, Côn Sơn Kiếp Bạc, nhà tù Côn Đảo, phủ Chủ tịch, khu di tích các mạng Tân Trào, nhà lưu niệm cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng, thành Nhà Hồ … Trong các di sản trên thì có bảy di sản được UNESCO vinh danh là Di sản thế giới, bao gồm: Thành Nhà Hồ, hoàng thành Thăng Long, quần thể di di sản Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn và Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
Việt Nam có 117 bảo tàng, chủ yếu ở hai thành phố lớn tập trung chủ yếu tại hai thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm: Bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Cách mạng, bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Quân đội, bảo tàng Dân tộc học, bảo tàng Phụ nữ, … Hai bảo tàng quốc gia là Bảo tàng Cách mạng và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Việt Nam đã trưng bày và tái hiện đầy đủ và sâu sắc về lịch sử phát triển của Việt Nam.
Về nghệ thuật dân gian có đại diện nhất là nghệ thuật múa rối nước. Những con rối dưới sự điều khiển của những nghệ sỹ đứng ẩn sau bức màn sân khấu nước hòa cùng âm nhạc truyền thống đặc trưng bản sắc dân tộc Việt Nam đã thực sự hấp dẫn du khách mỗi khi đến với Hà Nội. Ngoài ra còn có những làn điệu chèo, quan họ, những ca khúc cải lương, tiếng đàn bầu, … đã làm say đắm lòng bao du khách trong và ngoài nước.
Về tài nguyên du lịch xã hội, Việt Nam một trong những quốc gia có nhiều lễ hội cấp quốc gia. Lễ hội truyền thống phát triển cùng lịch sử là sản phẩm tinh thần và đời sống văn hóa của người Việt. Từ xưa người Việt Nam đã có câu “Uống nước nhớ nguồn” và lễ hội là một biểu hiện truyền thống cao đẹp của nhân dân về câu nói này, ca ngợi hình tượng Thánh thần, trong đó có anh hùng lịch sử dân tộc và những anh hùng huyền thoại. Sự tưởng nhớ của người dân thông qua các lễ hội đã góp phần rất lớn tô đẹp thêm hình ảnh những người hùng dân tộc có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Bảo tàng dân tộc học hàng năm đón hàng triệu khách du lịch tới tham quan, tìm hiểu
Thống kê năm 2014 cho thấy, Việt Nam có 7.966 lễ hội, trong đó có 7039 lễ hội quốc gia (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%) . Ngày lễ quan trọng nhất của Việt Nam là Tết Nguyên Đán. Ngoài ra còn có tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu, Quốc khánh, tết Nguyên tiêu,… Các lễ hội thường diễn ra vào dịp mùa Xuân và mùa Thu. Lễ hội tâm linh lịch sử thu hút nhiều người dân nhất là Giỗ tổ Hùng Vương (Quốc lễ),
Ngành du lịch Việt Nam qua gần 50 năm lịch sử phát triển và đã đạt được những thành quả rất lớn, trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của phát triển kinh tế quốc gia. Trước năm 1991, hệ thống tổ chức du lịch Việt Nam vẫn thiếu một quy mô tổ chức thống nhất. Từ sau năm 1991, khi bắt đầu áp dụng hàng loạt các chính sách mở cửa du lịch, ngành du lịch đã ngày càng được coi trọng phát triển. Trong những năm sau đó, Việt Nam tập trung vào việc tạo ra thương hiệu du lịch, các khái niệm về thương hiệu dần dần hình thành để phát triển một số sản phẩm du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch tâm linh, du lịch khám phá , … mở ra nhiều co hội cho phát triển du lịch văn hóa đã và đang thu hút hàng triệu du khách quốc tế mỗi năm đến với Việt Nam.